Tối ưu hóa tư duy của bạn

Tôi là Andrew Huberman, và tôi là giáo sư khoa sinh học thần kinh và nhãn khoa ở Trường Y Stanford. Hôm nay khách mời của tôi là Tiến Sĩ Alia Crum. TS Crum là một giáo sư có thời hạn (tenured professor) của khoa tâm lý tại Trường Đại học Stanford, và người sáng lập và giám đốc của Phòng Nghiên Cứu Tâm Trí Và Cơ Thể Stanford. Công trình nghiên cứu của cô ấy tập trung vào những lối hệ cách tư duy. Theo cái cách mà làm sao việc chúng ta nghĩ và tin vào cái gì có thể định hình mặt sinh lý của ta, mặt sinh học của ta phản ứng lại với những thứ như cái chúng ta ăn hay stress hay là tập thể dục. Thực sự (thật chất), như bạn sẽ sớm biết học hỏi được thôi từ cuộc thảo luận của tôi với Tiến Sĩ Crum, cái mà bạn tin về thành phần dinh dưỡng của thức ăn thực phẩm của bạn thay đổi cách mà thức ăn thực phẩm đó có ảnh hưởng tới não và cơ thể bạn ở một mức độ rất là đáng kể. Và điều tương tự cũng đúng cho cách hệ tư duy về việc tập thể dục và stress và thậm chí là dùng thuốc. Ví dụ như, những nghiên cứu mới đây nhất từ phòng thí nghiệm của Tiến Sĩ Crum cho thấy rằng, cái mà ta tin vào những thành phần mặt hồ sơ tác dụng phụ của một số phương pháp điều trị thuốc khác nhau hay một số cách điều trị về hành vi khác nhau có một sự ảnh hưởng to lớn lên cách mà nhanh làm sao những phương thức điều trị đó có hiệu quả và tính hiệu quả của những phương thức điều trị đó. Tôi chỉ muốn đề cập một nghiên cứu cụ thể mà mới vừa được cho xuất bản từ một học sinh tốt nghiệp (graduate student) trong phòng thí nghiệm của TS Crum, Lauren Howe, cho thấy rằng làm sao những đứa con nít phản ứng lại với những phương pháp điều trị cho dị ứng đậu phộng có thể được định hình khá nhiều bởi việc những đứa trẻ đó được giáo dục được chỉ bảo về tác dụng phụ của phương pháp điều trị đó, ở một mức mà nếu chúng biết được rằng những tác dụng phụ là một sản phẩm phụ (by-product) của một phương pháp điều trị mà có thể giúp cho chúng và chúng biết một chút về việc làm sao những phản ứng phụ (tác dụng phụ) đó lại xuất hiện lên và thậm chí là những tác dụng phụ đó thậm chí có thể giúp chúng trên con đường vượt qua được dị ứng đậu phộng, thì có một ảnh hưởng to lớn về việc chúng nó đi qua liệu trình nhanh đến cỡ nào mức nào hay thậm chí thực sự là chúng phải chịu đựng nhiều đến mức nào hay trong trường hợp này không phải chịu đựng qua những tác dụng phụ đó. Và đó là một trong những ví dụ mà bạn sẽ được nghe biết qua hôm nay khi chúng tôi bàn luận về hệ cách tư duy là gì, số lượng của những hệ tư duy mà đang tồn tại (đang có), và làm sao chúng ta có thể lấy thấm nhuần nhận vào những lối cách hệ tư duy mà làm cho chúng ta có sự thích nghi cao hơn, hiệu quả cao hơn, cho phép chúng ta chịu đựng ít hơn và hoàn thành làm nhiệm vụ tốt hơn (perform better) trong tất cả những mặt khía cạnh của cuộc sống.

Tôi cá nhân tôi cảm thấy những nghiên cứu của TS Alia Crum là một trong những nghiên cứu quan trọng nhất được thực hiện trong lĩnh vực sinh học và tâm lý học và giao thức (giao diện, interface) của tâm trí và cơ thể. Tất cả mọi thứ mà cô ấy đã làm (thực hiện) cho đến thời điểm này và đã được xuất bản ra, và thực chất những công trình nghiên cứu mà cô ấy vẫn đang tiếp tục làm, đã định hình tất cả mọi thứ trong những lề lối (thói quen, routine) hằng ngày của tôi (những gì tôi làm hằng ngày), trong thói quen cách làm việc của tôi, trong quá trình thói quen về hướng vận động của tôi (athletic routines). Và chúng ta có lẽ không nên ngạc nhiên bởi một sự thật là TS Crum làm việc (nghiên cứu) trên tất cả những thứ, lĩnh vực này. Cô ấy không chỉ là một giáo sư nghiên cứu có thời hạn (tenured research professor) cực kỳ có thành tựu, mà cô ấy còn là một bác sĩ tâm lý lâm sàng (clinical psychologist) và cô ấy cũng là một vận động viên Hạng Nhất (Division 1 athlete) và một vận động viên thể dục dụng cụ tuyệt đỉnh ở trong một giai đoạn trong cuộc sống của cô. Nên cô ấy thực sự thực hành những gì mình nói (nghiên cứu) về mặt là hiểu được lề lối cách hệ tư duy là gì và áp dụng nó vào một số khía cạnh khác nhau trong cuộc sống. Tôi dám chắc chắn rằng bạn sẽ một được một khối một tấn từ cuộc trò chuyện (conversation) này như là tôi, và rút ra được về cho mình rất là rất là nhiều những mảnh nhỏ có thể thực hành được mà bạn có thể áp dụng vào chính cuộc sống của bạn.

Thực tế, khi chúng ta dần bộ hành (hành quân, march) vào trong cuộc hội thoại hôm nay, bạn có thể muốn lưu ý lại vào phía sau tâm trí của mình (lưu ý lại nhận thức nhưng không thực sự nghĩ tới), một câu hỏi, lối tư duy của tôi về .... (khoảng trống, một khía cạnh nào đó) là gì? Vậy nên ví dụ như, hãy hỏi bản thân bạn, lối tư duy của tôi về stress là gì? Lối tư duy về thức ăn của tôi là gì? Lối tư duy về tập thể dục của tôi là gì? Lối tư duy của tôi là gì về các mối quan hệ thuộc nhiều kiểu khác nhau? Bởi vì bằng (thông qua) việc làm điều đó, bạn sẽ ở trong một tâm thế vị thế (vị trí) khá là tốt (tuyệt vời) để trích xuất ra phần tốt nhất của thông tin mà TS Crum trình bày và thực chất để nhận lấy những lối tư duy đó trong (theo) những cách mà sẽ là có lợi ích lớn nhất đối với bạn.

Trước khi chúng ta bắt đầu, tôi muốn nhấn mạnh là podcast này nằm riêng biệt với những vai trò giảng dạy và nghiên cứu của tôi ở Stanford. Tuy nhiên, nó là một phần khao khát và nỗ lực của tôi để mang đến thông tin (phổ thông/phổ biến/dân dụng) tiêu thụ tiêu dùng không tốn phí về khoa học và những công cụ liên quan đến khoa học cho công chúng nói chung (đại chúng).  

Cùng mạch theo với chủ đề đó, tôi muốn cảm ơn những nhà tài trợ cho chương trình podcast hôm nay. Nhà tài trợ đầu tiên của chúng ta là Thesis, Thesis làm ra những viên thuốc bổ não được đo ni đóng giày (custom nootropics) mà là lý tưởng cho những trạng thái não cụ thể mà bạn muốn ở trong. Cụm từ nootropic nghĩa là thuốc thông minh (smart drug) và nó không phải là một cụm từ mà tôi thích bởi vì không có cái thứ mà là một loại thuốc thông minh hữu dụng cho cả toàn cầu. Lý do cho việc đó là, não của chúng ta có thể trở nên sáng tạo, có thể là tập trung, chúng ta có thể giỏi ở việc chuyển đổi tác vụ (công việc, việc làm, task switching) và mỗi trong số những thứ khác nhau đó, sáng tạo, tập trung và chuyển đổi tác vụ bao gồm những hóa chất não khác nhau trong những trạng thái khác nhau của tâm trí và cơ thể. Vậy nên khái niệm là có một loại thuốc bổ não tốt nhất là chỉ là không chính xác (chuẩn xác) không có cách nào mà việc đó có thể trở nên khả thi cả. Thesis hiểu được điều này và vì lý do đó, thiết kế (bào chế) những loại thuốc bổ não được đo ni đóng giày mà được thiết kế để mang não và cơ thể bạn vào một trạng thái mà bạn muốn và những cái mà được thiết kế cụ thể cho hệ hóa thần kinh của bạn. Họ chỉ dùng những nguyên liệu có chất lượng cao nhất, phần lớn những thứ mà tôi đã đề cập, những thứ như DHA, gingko biloba, phosphatidylserine, alpha-GPC, là một cái chất mà tôi đặc biệt cụ thể thích, và là có trong một số những hỗn hợp này (formulations) mà được cá nhân hóa cho tôi. Tuy nhiên, gingko biloba, mà có rất nhiều nghiên cứu để ủng hộ bổ trợ cho nó và được dùng hợp (well tolerated) bởi rất là nhiều người, không có tác dụng hiệu quả lắm đối với tôi, nó thực sự cho tôi những cơn đau đầu. Nên nguyên liệu chất đó không có được bao gồm trong bất kỳ những hỗn hợp cá nhân hóa nào mà Thesis đã làm, cụ thể là cho tôi. Thesis có tài sản vật chất to lớn này, đó là họ cho bạn khả năng để thử một số những hỗn hợp phối trộn khác nhau trong vòng một tháng và khám phá ra loại thuốc bổ não nào hoạt động tốt nhất cho mặt hóa học não và gen di truyền độc nhất của bạn (unique brain chemistry and genetics). Vậy nên hỗn hợp mà có hiệu quả với tôi có thể sẽ không là hiệu quả tốt nhất đối với bạn và ngược lại nhưng bằng trong một khoảng thời gian ngắn bạn có thể chỉnh vào đúng những công thức hỗn hợp kết hợp loại thuốc bổ não chính xác cho những trạng thái não và cơ thể mà bạn muốn ở trong. Tôi dùng Thesis gần được 6 tháng rồi và tôi có thể tự tin chia sẻ nói với bạn rằng những thuốc bổ não của họ thực sự mang lại hiệu quả to lớn (a total game changer). Tôi thích hỗn hợp 'động lực', tôi cũng thích hỗn hợp 'năng lượng' tôi dùng những hỗn hợp đó cho những việc (thứ) khác nhau, hóa ra, nhưng tôi rất thích chúng và tôi dùng hỗn hợp 'logic' và hỗn hợp 'clarity (sự sáng suốt)' của họ mà họ đã làm riêng cá nhân hóa cho tôi. Cộng thêm bổ sung vào trong đặc điểm cá nhân hóa (sự lựa chọn có thể cá nhân hóa) này, Thesis mang nó lên một bước xa hơn nữa, họ sẽ cho bạn một buổi tư vấn miễn phí với một huấn luyện viên về não bộ để giúp tối ưu hóa trải nghiệm của bạn với những loại thuốc bổ não và giúp cân chỉnh vào những công thức (sự phối trộn) tốt nhất cho bạn. Để lấy được bộ sản phẩm bắt đầu thuốc bổ não được cá nhân hóa (personalized nootropic starter kit) của bạn, hãy lên mạng vào takethesis.com/huberman, làm bài trắc nghiệm ngắn 3 phút của họ, và Thesis sẽ gửi cho bạn 4 công thức phối trộn khác nhau để thử trong tháng đầu tiên của bạn. Đó là trang web takethesis.com/huberman và sử dụng mã Huberman khi thanh toán để được giảm giá 10% cho hộp đầu tiên của bạn.

Tập phát sóng hôm nay cũng được mang đến cho chúng ta bởi Roka. Roka làm kính cận và kính mát mà nằm ở chất lượng tuyệt đỉnh cao nhất. Tôi đã dành ra cả đời tôi để làm việc trên hệ thị giác. Và tôi có thể nói với bạn rằng hệ thị giác của chúng ta phải chiến đấu với một số lượng lớn những thử thách khác nhau, một ví dụ không phải là kém quan trọng nhất trong số đó là, khi chúng ta đi từ một nơi rất là sáng chói, đầy nắng bên ngoài vào một nơi có bóng râm, hệ thị giác của ta phải thích nghi để mà cho chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng hơn. Rất nhiều loại kính mát ngoài kia chỉ không cho sự thích nghi đó diễn ra theo một cách trơn tru mượt mà (seamless way). Kính thuốc và kính mát của Roka được thiết kế với tất cả những mặt sinh học của hệ thị giác được lưu tâm đến, để mà bạn luôn nhìn thấy mọi vật rõ như tinh thể (thủy tinh, thạch anh, crystal clarity) bất kể môi trường bạn đang ở trong là gì. Họ cũng có một gu thẩm mỹ tuyệt vời. Họ có rất là rất là nhiều kiểu để lựa chọn từ. Vậy nên những kính mát của họ có thể được đeo đến bữa tối đi ra ngoài ăn trưa hay đi làm. Kính mát của họ có thể được đeo theo thực chất là ở bất kỳ bất kể nơi đâu. Chúng rất là thời trang và chúng được thiết kế cho hiệu năng tốt (designed for performance). Chúng sẽ không trơn tuột xuống mặt của bạn nếu bạn đổ mồ hôi, thật sự, bạn có thể mang chúng trong lúc đang chạy bộ hay trong lúc đang đạp xe tập thể dục. Chúng thực sự rất là tuyệt vời, chúng thực sự rất là đa dạng (muôn hình vạn trạng, linh hoạt, dễ dàng tùy biến, versatile). Nếu bạn muốn thử kính của Roka, hãy vào Roka đó là roka.com và nhập vào mã Huberman để được giảm giá 20% cho đơn hàng đầu tiên của bạn. Và một lần nữa, đó là roka.com và nhập vào mã Huberman khi đến trang thanh toán.

Tập phát sóng hôm nay của chúng ta cũng được mang đến bởi InsideTracker. InsideTracker là một nền tảng dinh dưỡng được cá nhân hóa mà nghiên cứu phân tích dữ liệu từ máu và ADN của bạn để giúp bạn đạt được những mục tiêu sức khỏe dài hạn hiệu quả hơn. Tôi là một người đã lâu vẫn tin tưởng vào việc hãy kiểm tra máu của bạn thường xuyên vì một lý do đơn giản là rất nhiều trong số những thứ mà có ảnh hưởng đến sức khỏe trực tiếp trước mắt và dài hạn của bạn, chỉ có thể được kiểm tra ra từ một cuộc kiểm tra máu có chất lượng. Và ngày nay với sự phát triển của những bài kiểm tra ADN hiện đại, bạn còn có thể có một cửa sổ nhìn vào làm sao những gen của bạn đang ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn trong ngắn và dài hạn và những thứ khác nhau mà bạn nên làm để mà chỉnh sức khỏe của bạn theo hướng đi đúng đắn. Và bây giờ, một trong những vấn đề lớn của rất nhiều bài kiểm tra máu và kiểm tra ADN hiện nay ngoài kia, là bạn có những con số được trả về và bạn biết được là có hay không lượng mỡ (lipid) và hóc môn của bạn vv. đang ở trong một mức hợp lý hay không. Nhưng lại không có quá nhiều chỉ dẫn về việc ta nên làm gì với những thông tin đó. InsideTracker làm tất cả mọi những thứ đó cực kỳ đơn giản. Họ có một bảng điều khiển được cá nhân hóa mà cho phép bạn, tất nhiên là, thấy những con số mà được trả về bạn và để thực hiện một số thay đổi trong dinh dưỡng, một số thay đổi trong việc tập thể dục, những thay đổi khác nhau trong cả thảy nhiều kiểu yếu tố lối sống (lifestyle factors) mà có thể mang những con số đó vào lại trong mức hợp lý. Và vậy nên, nếu bạn có một giá trị cụ thể cho một yếu tố trao đổi chất cụ thể hay một hóc môn hay sao đó (như thế), bạn nhấp vào chỉ số đó và nó sẽ hiện ra một danh sách đầy đủ những thứ mà bạn có thể làm để điều chỉnh yếu tố vào trong những mức mà bạn muốn, tất cả đều dựa trên những nghiên cứu có chất lượng đã được đồng nghiệp đánh giá qua. Nếu bạn muốn thử InsideTracker, bạn có thể vào insidetracker.com/huberman để có được giảm giá 25% cho bất kỳ gói đăng ký nào của InsideTracker. Chỉ cần dùng mã Huberman khi thanh toán.

Và bây giờ, cuộc trò chuyện của tôi với Tiến Sĩ Alia Crum.

AH: Thật tuyệt khi cô đến tham dự ở đây

AC: Thật tuyệt khi đến đây (AH: Yeah)

AH: Để nói chính xác, tên cô là Alia Crum, nhưng mọi người hay gọi cô là Allie phải không nào?

AC: Đúng rồi á.

AH: Tiến Sĩ Allie Crum

AC: Hay chỉ là Allie thôi được rồi.

AH: Ok, tuyệt vời. Chà, tôi mong đợi được nói chuyện với cô lâu lắm rồi đó. Để bắt đầu, cô đã nói rất nhiều về và làm việc rất nhiều về mặt khoa học của những hệ lối tư duy. Cô có thể định nghĩa cho chúng tôi hệ tư duy là gì và kiểu mục đích gì mà nó phục vụ?

AC: Tất nhiên rồi, yeah, hệ lối tư duy đã được miêu tả hay định nghĩa theo rất là nhiều cách. Chúng tôi định nghĩa hệ tư duy là những niềm tin cốt lõi hay những giả dụ mà chúng ta có về một mặt hay là một phân khúc cụ thể nào đó của các sự vật sự việc (about a domain or category of things), mà định hướng cho chúng ta đến một tập hợp những mong đợi (kỳ vọng) cụ thể nào đó, những sự giải thích và mục tiêu. Vậy nên điều đó nó hơi là mang tính thuật ngữ chuyên môn hóa, một chút, tôi có thể chắt lọc (distill it down) cho anh. Vậy nên hệ lối tư duy là một giả dụ (assumption) mà anh có về một phần mặt nào đó (a domain). Vậy nên, hãy lấy stress làm một ví dụ. Bản chất của stress. Cái mà kiểu như là niềm tin cốt lõi của anh về stress là gì? Và những hệ lối tư duy mà chúng tôi đã nghiên cứu về stress là bạn xem stress là một sự trợ lực (enhancing) tốt cho bạn hay là bạn xem stress là một sự giảm lại khả năng và là xấu đối với bạn. Những hệ tư duy đó, những niềm tin cốt lõi đó, định hướng lại đường lối suy nghĩ của chúng ta, chúng thay đổi điều mà chúng ta kỳ vọng sẽ xẩy ra với chúng ta khi chúng ta stress, làm sao chúng ta giải thích những sự kiện (occurences) mà xảy ra hay mở ra khi chúng ta stress và cùng làm thay đổi động lực của chúng ta cho việc mà chúng ta tham gia vào khi ta stress. Vậy nên chúng ta có hệ tư duy về rất là nhiều thứ, hệ tư duy về stress, hệ tư duy về trí thông minh (intelligence), như là công trình nghiên cứu của Carol Dweck đã cho thấy, hệ tư duy về thức ăn, hệ tư duy về thuốc, bạn có thể kể tên nó tùy thích. Nó kiểu như là chắt lọc lại những giả dụ cốt lõi đó mà thực sự định hình và định hướng suy nghĩ của chúng ta trong hành động.

AH: Tôi nghe rằng cô đã nói lúc trước, rằng hệ tư duy làm đơn giản hóa cuộc sống theo một cách nào đó, bằng việc giới hạn thu gọn lại (constraining) số lượng những thứ mà chúng ta phải cân nhắc, xem xét. Và nó nghe như là đối với tôi là chúng ta có thể có hệ tư duy về rất là nhiều thứ, như là cô nói. Một số những hệ tư duy khác nhau là gì? Tôi nghĩ mọi người quen thuộc với khái niệm của đồng nghiệp của chúng ta Carol Dweck về hệ tư duy của sự phát triển (growth mindset), rằng chúng ta không thành thạo (proficient) ở một việc một cái gì đó thì (rằng) chúng ta nên nghĩ về việc chưa thành thạo lắm rằng chúng ta đang ở trên con đường đến sự thành thạo. Nhưng đâu là một số ví dụ của hệ tư duy, và những hệ tư duy này được ghi vào trong chúng ta sớm ở tuổi nào (how early do these get laid down), hay chúng ta học được nó từ ba mẹ của ta. Có lẽ nếu cô có thể làm rõ chi tiết hơn một chút cho chúng tôi về mặt cô đã quan sát được những gì trong nghiên cứu khoa học của cô hay là trong chính cuộc sống của cô vậy đó.

AC: Yeah, chắc chắn rồi. Tôi nghĩ là nó là quan trọng với công trình nghiên cứu của Carol Dweck, rất là nhiều người kiểu như tập trung vào sự phát triển, động lực và tất cả những thứ đó, nhưng nghiên cứu của cô ấy thực sự bắt nguồn từ việc nghĩ về, cái mà cô ấy gọi là những lý thuyết ngầm hay những niềm tin cốt lõi về bản chất của trí thông minh hay khả năng, phải không nào? Vậy nên, bạn có tin rằng những mức nền của bạn về trí thông minh hay những khả năng của bạn là cố định, ở một trạng thái (static), định nguyên hình y như vậy trong qua suốt phần còn lại của cuộc đời của bạn? Hay rằng bạn tin rằng chúng có thể phát triển và thay đổi? Và giờ, chúng là những sự chung chung hóa được đơn giản hóa khá là nhiều (over-simplified generalizations) về bản chất của trí thông minh. Và thực tế là như nó luôn là rất là phức tạp và nó là một chút của cả hai và tất cả những thứ đó. Nhưng là con người, chúng ta cần những hệ được đơn giản hóa này để giúp chúng ta hiểu được một thực tế phức tạp (hiện thực phức tạp). Vậy nên những giả dụ đó mà chúng ta nhảy vào (nhảy đến), như là ồ trí thông minh là cố định hay là trí thông minh là có thể nhào nặn được, chúng giúp ta đơn giản hóa thực tế phức tạp này nhưng mà chúng không phải là không quan trọng phải không nào. Chúng quan trọng trong việc định hình động lực của ta. Và cô ấy (Carol Dweck) đã cho thấy rằng nếu bạn có một hệ tư duy là trí thông minh là nhào nắn được, bạn được tiếp thêm động lực để làm việc siêng năng hơn, để phát triển trí thông minh của bạn. Nếu bạn có một sự thụt lùi (setback) gì đó trong việc học, bạn nghĩ, ok, có một thứ gì đó ở đó mà tôi có thể phát triển và học hỏi và xây dựng nên. Nếu bạn có hệ tư duy là trí thông minh là cố định, bạn biết đó, tại sao lại làm việc học chăm chỉ hơn môn toán, nếu bạn không nghĩ là bạn giỏi môn đó. Vậy nên, khi nhìn lại, nó rất là rõ ràng là làm sao những hệ tư duy này có thể ảnh hưởng đến động lực của ta. Cái mà những nghiên cứu của chúng tôi có và làm là để mở rộng ra những hệ tư duy mà chúng tôi đang nghiên cứu, tập trung vào và ngoài ra để hiểu và mở rộng thêm cái dãy những hiệu ứng (hiệu quả) mà chúng (những hệ lối tư duy này) có. Vậy nên, nhìn chung là chúng tôi tập trung vào những hệ tư duy trong phân khúc sức khỏe và những hành vi sức khỏe. Vậy nên tôi đã đề cập trong những hệ tư duy về stress, chúng ta cũng đã nhìn vào những hệ tư duy về thức ăn và cách ăn uống lành mạnh. Vậy nên bạn có một hệ tư duy là thức ăn là tốt cho bạn, hay thức ăn lành mạnh là thật ghê tởm và cướp đoạt (depriving) hay bạn có một hệ tư duy là thức ăn lành mạnh tốt cho sức khỏe thật là khiến cho ta hưởng thụ (tận hưởng, indulgent) và ngon miệng? Và giờ, nó có thể là một loạt những loại thức ăn khác nhau. Bạn có thể có những suy nghĩ khác nhau về những loại thức ăn lành mạnh khác nhau. Nhưng nhìn chung nhiều người, ít nhất là trong văn hóa của chúng ta phương Tây, có một quan điểm nhìn là, stress thật là tai hại (làm đuối sức, làm suy nhược, debilitating), những thức ăn lành mạnh thật là gớm ghiếc và cướp đoạt (depriving). Và những hệ tư duy đó, dù rằng nó là đúng hay sai, phải hay trái, chúng có một sức ảnh hưởng. Và chúng có một ảnh hưởng không phải chỉ qua những cơ chế tạo động lực mà Dweck và những người khác đã nghiên cứu, nhưng như mà phòng thí nghiệm của chúng tôi bắt đầu khai phá (khám phá, tìm tòi ra, tiết lộ ra, reveal) chúng cũng định hình những cơ chế sinh lý của ta bằng việc thay đổi cái mà cơ thể chúng ta ưu tiên và chuẩn bị để làm. Vậy nên đó chỉ là hai ví dụ. Hệ tư duy về stress, hệ tư duy về thức ăn mà chúng tôi đã nghiên cứu qua. Hệ tư duy về cách tập thể dục, bạn có cảm thấy như bạn đang có tập thể dục đủ hay bạn đang cảm thấy là bạn đang tập thể dục một lượng chưa đủ để có những lợi ích về sức khỏe mà bạn đang tìm kiếm (hướng đến). Hệ tư duy về bệnh tật. Bạn có góc nhìn bệnh ung thư là một thảm họa không thể hạn chế được hay là bạn nhìn nhận bệnh ung thư là có thể quản lý được hay thậm chí là có lẽ còn cả là một cơ hội. Chúng tôi đã nhìn về nghiên cứu những hệ tư duy về những triệu chứng và tác dụng phụ. Bạn có nhìn tác dụng phụ như là một dấu hiệu là liệu trình (phương pháp điều trị) là nguy hại hay bạn xem những tác dụng phụ là một dấu hiệu mà phương pháp điều trị đang có hiệu quả? Và một lần nữa, những cái này giống như những niềm tin cốt lõi hay những giả dụ mà bạn có về những khía cạnh hay thể loại (hạng mục, domains or categories) này nhưng chúng có tầm quan trọng riêng bởi vì chúng đang định hình, chúng đang tổng hợp lại (synthesize) và đơn giản hóa cách mà chúng ta suy nghĩ, nhưng chúng cũng đang định hình cái mà chúng ta đang hướng sự chú ý đến, cái mà chúng ta được có được động lực để làm và có khả năng là làm sao cơ thể ta phản ứng lại.

AH: Yeah, tôi rất muốn nói về khái niệm của sức mạnh của việc định hình hệ tư duy làm sao cơ thể của chúng ta phản ứng lại. Và có lẽ là như là một ví dụ của việc này, nếu cô có thể chia sẻ với chúng tôi một thí nghiệm giờ đây đã khá nổi tiếng mà cô đã thực hiện với thí nghiệm sinh tố (milkshake study), nếu cô không phiền chia sẻ những đường nét chính quan trọng (contours) của thí nghiệm đó và kết quả, bởi vì tôi nghĩ là chúng là cực kỳ ấn tượng và chúng thực sự nói lên được vào sự tương tác tác động qua lại giữa hệ tư duy và mặt sinh lý.

AC: Chắc chắn rồi, yeah. Đây là một cuộc nghiên cứu mà tôi chạy với tư cách là một sinh viên tốt nghiệp ở Đại học Yale. Tôi cùng làm việc với Kelly Brownell và Peter Salovey. Salovey đã làm rất nhiều (đổ công sức vào làm việc) trong việc định hình cụm từ emotional intelligence, trí thông minh cảm xúc (trí tuệ cảm xúc).

AH: Giờ anh ấy là chủ tịch ở Yale phải không nào.

AC: Đúng vậy, anh ấy giờ đang là chủ tịch ở Yale.

AH: Anh ấy đã làm khá tốt.

AC: Anh ấy đã làm rất tốt cho bản thân anh ấy và cho trường và cả xã hội. Và Kelly Brownell, người mà cũng đã làm rất nhiều nghiên cứu về thức ăn và sự béo phì và tôi đã tham gia vào làm một số nghiên cứu trước đó về hệ tư duy về việc tập thể dục và những hiệu ứng giả dược (placebo effects) về việc tập thể dục và kiểu như ở trong phân khúc thức ăn này và phân khúc cảm xúc và thức ăn này, và nó thực sự hiện ra đến với tôi là, rằng có một câu hỏi rất là đơn giản mà chưa được hỏi ra (kích cầu ra), và đó là những niềm tin của chúng ta về việc cái mà chúng ta đang ăn gì thay đổi phản ứng sinh lý của cơ thể về loại thức ăn đó, giữ y nguyên, những chất dinh dưỡng khách quan của món ăn đó. Vậy nên câu hỏi đó có thể nghe hơi rất là khác thường kỳ quặc lúc bạn đầu. Nhưng thực sự nó không có quá khác thường nếu bạn đến từ một phương diện của việc đã học qua chuyên sâu những hiệu ứng giả dược. Hiệu ứng giả dược, trong y dược, ít nhất là kiểu như những sự thể hiện ra mãnh liệt (robust demostration) mà trong đó đơn giản chỉ bằng việc uống một viên đường, không uống gì thêm, dưới ấn tượng là nó là thuốc thật (real medication) mà có thể làm giảm hen suyễn của bạn, giảm huyết áp của bạn, và tăng cường hệ miễn dịch của bạn có thể dẫn đến những hiệu ứng sinh lý đó mặc dù là không có bất kỳ một chất dinh dưỡng khách quan nào cả. Và chúng tôi có rất nhiều bằng chứng khác cho những hiệu ứng giả dược này hơn cho bất cứ những loại thuốc nào khác. (AH: Thật à?) Bởi vì quá trình thử nghiệm lâm sàng, về việc tất cả những loại thuốc (drugs) hay phương thuốc (medications) được yêu cầu để vượt qua khỏi những hiệu ứng giả dược. Vậy nên chúng tôi có rất nhiều dữ liệu về những hiệu ứng giả dược. Và giờ, bạn biết đó, chúng ta có thể đi vào những điều điểm khác biệt nhỏ chi li ở trong đó. Chúng ta không có quá nhiều những dữ liệu so sánh hiệu ứng giả dược với việc chẳng làm gì cả, điều mà khá là quan trọng cho việc chắt lọc lại những hiệu ứng về hệ tư duy hay là hiệu ứng về niềm tin từ những thay đổi kiểu như tự nhiên trong cơ thể. Nhưng dù sao thì, trở về lại với câu hỏi này, nó giống như, ok là, chúng ta di chuyển từ việc những phương thuốc (medications) giúp giải quyết những khủng hoảng về sức khỏe của ta đến những phương thuốc về hành vi để giúp ta giải quyết những khủng hoảng về sức khỏe, làm tăng lên việc tập thể dục của mọi người, giúp họ ăn uống ngon miệng hơn. Ở mức độ nào mà những thứ này chịu ảnh hưởng của hệ tư duy của ta hay những niềm tin của ta về chúng. Vậy nên để thử nghiệm cho câu hỏi này, chúng tôi chạy một cuộc nghiên cứu mà trông thì có vẻ đơn giản. Nghiên cứu này được thực hiện ở trung tâm Yale cho những nghiên cứu lâm sàng và tịnh tiến (translational research: nghiên cứu nhằm chuyển các kết quả trong nghiên cứu cơ bản thành các kết quả mang lại lợi ích trực tiếp cho con người (Wikipedia)). Và chúng tôi mang những người tham gia vào trong phòng thí nghiệm dưới (theo) một ấn tượng là chúng tôi đang thiết kế những loại sinh tố khác nhau với những nồng độ chất trao đổi chất khác nhau xa, những nồng độ chất dinh dưỡng mà được thiết kế để đáp ứng những nhu cầu trao đổi chất khác nhau cho những người viếng thăm (khách ra vào thường xuyên, hay bệnh nhân?, patron) của bệnh viện phải không nào . Vậy nên bạn sẽ vào bạn sẽ nếm thử những loại sinh tố này và chúng tôi sẽ đo lường những phản ứng sinh lý của cơ thể bạn đối với các loại sinh tố. Và việc này là nằm trong sự thiết kế của những đối tượng tham gia, nên nó là cùng những người (đối tượng) tham gia uống hai loại sinh tố khác nhau ở hai giai đoạn thời điểm khác nhau cách nhau một tuần. Và ở một thời điểm họ được cho biết rằng họ đang uống loại sinh tố nhiều chất béo, nhiều calo thèm thuồng hưởng thụ (high fat, high caloric indulgent milkshake). Nó giống như 620 calo cực kỳ nhiều chất béo và đường. Ở một thời điểm khác họ được cho biết rằng đó là một loại sinh tố ít chất béo, ít calo, một loại kiểu sinh tố hợp lý (sensible) ăn kiêng. Trong thực tế, đó là cùng một loại sinh tố y chang nhau. Nó nằm ngay ở chính giữa, nó cỡ như 300 calo, có một lượng chất béo và đường vừa phải, và chúng tôi đo lường phản ứng peptide (peptit) trong đường ruột của họ với loại sinh tố này. Và cụ thể là, chúng tôi đang nhìn vào loại hóc môn ghrelin. Và như anh đã biết, ghrelin, những chuyên gia y khoa gọi nó là hóc môn cảm giác đói tăng lên và ghrelin báo hiệu, bạn biết đó, tìm kiếm thức ăn, và rồi theo mặt lý thuyết là, theo cùng tỷ lệ đó, lượng calo mà bạn hấp thụ, mức độ ghrelin giảm xuống, báo hiệu cho não bộ, ok bạn không cần phải ăn quá nhiều nữa, bạn có thể ngưng ăn chút. Và ngoài ra cũng giúp làm tăng lên hệ trao đổi chất để đốt cháy những chất dinh dưỡng mà chúng ta vừa ăn vào (ingested). Điều (cái) mà chúng tôi tìm hiểu ra khám phá ra trong cuộc nghiên cứu này là, khi người ta tưởng nghĩ rằng họ đang uống loại sinh tố nhiều chất béo nhiều calo gây hưởng thụ (indulgent), như một phản ứng với loại sinh tố đó, lượng ghrelin của họ giảm xuống ở mức gấp ba lần nhiều hơn so với lúc mà họ nghĩ họ đang uống loại sinh tố hợp lý (ít béo, ít calo). Vậy nên, về bản chất thì cơ thể của họ phản ứng lại với như kiểu là họ đã ăn nhiều thức ăn hơn, mặc dù đó là cùng một loại sinh tố giống y chang nhau ở cả hai thời điểm. Vậy nên điều này thật là thú vị và quan trọng vì hai lý do, thật sự đó. Một là nó là, theo sự hiểu biết của tôi, một trong những nghiên cứu đầu tiên để cho thấy bất kỳ hiệu ứng nào của việc chỉ tin tưởng là bạn đang ăn một thứ gì đó khác trên mặt sinh lý của bạn. Rất nhiều những nghiên cứu đã cho thấy điều đó, tin tưởng rằng bạn đang ăn những thứ khác nhau, thay đổi vị giác của bạn và thậm chí sự hài lòng và cảm giác no của bạn sau đó. Nhưng điều này cho thấy rằng nó có một thành phần trao đổi chất hay là sinh lý. Nhưng mảnh thứ hai cũng rất là quan trọng nữa. Đặc biệt là đối với tôi, đây là một nghiên cứu mà thực sự thay đổi cách mà tôi suy nghĩ về cách mà tôi tiếp cận việc ăn uống. Và đó là cách thức mà nó ảnh hưởng đến sinh lý của chúng ta là một cái gì đó nó hơi phản trực quan (counterintuitive). Nên tôi đã đi vào suy nghĩ, hệ tư duy tốt hơn để chúng ta vào khi ta ăn là bạn đang ăn uống lành mạnh, phải không nào? Như là bạn biết đó, nó có vẻ hợp lý phải không nào, như là hiệu ứng giả dược, bạn nghĩ bạn khỏe mạnh, bạn sẽ khỏe mạnh, bạn biết đó. Nhưng đó là một cách quá là đơn giản để nghĩ về việc đó. Trong thực tế, nó là một hướng hoàn toàn ngược lại. Bởi vì việc nghĩ rằng họ đang ăn, khi những người tham gia này họ nghĩ họ đang ăn uống hợp lý, cơ thể họ vẫn để lại cho họ cảm giác vẫn cảm thấy đói về mặt sinh lý, phải không nào. Không phải là đã ăn no. Cái mà có khả năng là dẫn đến liên quan đến hệ trao đổi chất chậm lại và vân vân kiểu như vậy. Vậy nên nếu bạn đang có hứng thú duy trì hay là giảm cân, hệ tư duy tốt nhất để có ở trong là gì? Đó là ở trong hệ tư duy rằng bạn đang ăn uống rất là hả hê no nê thích thú. Rằng bạn đang ăn đủ thức ăn, rằng bạn đang có đủ và ít nhất là trong nghiên cứu đó chúng tôi cho thấy rằng điều đó có một hiệu ứng giúp thích nghi nhiều hơn trong những phản ứng của hóc môn.

AH: Quá là thú vị. Và đặc biệt thú vị đối với tôi là một nhà khoa học thần kinh là người đã làm việc trên nhiều khía cạnh của hệ thần kinh mà được có liên quan đến những tri giác có ý thức như thị giác (vision) và chuyển động (motion) và sự tri giác về màu sắc và vân vân nhưng ngoài ra phòng thí nghiệm của chúng tôi đã làm việc và đang làm việc nhiều trên những chức năng tự động mà nằm ở phía dưới sự nhận thức ra của ý thức của chúng ta. Trong trường hợp này, một sự nói dối về bao nhiêu một chất nào đó mà những loại sinh tố này bao gồm có ảnh hưởng đến quá trình tiềm thức bởi vì tôi phải tưởng tượng ra rằng con đường ghrelin là không phải một con đường mà tôi có thể quyết định, ồ, một mảnh cụ thể của miếng sô cô la này sẽ thật sự giảm xuống lượng ghrelin của tôi bởi vì nó rất là giàu chất dinh dưỡng, ngược lại với một mảnh mà, ví dụ như bạn nói với tôi, là sô cô la ít calo hay là không đường hay một thứ đại loại thế. Con đường ghrelin, tuy nhiên, nó dường như dựa trên dữ liệu của cô, là con đường ghrelin là dễ bị ảnh hưởng bỏi suy nghĩ, điều mà thật là tuyệt vời và rồi một lần nữa, sẽ có một sự va lặp giữa nhưng suy nghĩ có ý thức và những con đường tàng thức (tiềm thức) kiểu như tự chủ (thực vật) này. Vậy nên nó thực sự là rất là tuyệt vời. Nó dấy lên một câu hỏi mà tôi phải chỉ muốn hỏi nhưng nó càng liên quan đến những cuộc thảo luận trên mạng và mạng xã hội, trong một trong những chủ đề chông gai đầy gai góc nhất ngoài kia và điều đó là tôi đang nói rộng rãi phóng khoáng đó, là chủ đề của việc chế độ dinh dưỡng hay chất dinh dưỡng là tốt nhất? Bạn có những người mà chỉ sử dụng nghiêm chính những sản phẩm từ thực vật mà thôi, bạn có những người mà ăn cả rau và thịt (omnivores), bạn có những người mà chỉ ăn thịt (carnivores) bạn có đủ mọi loại đa dạng chủng loại, bạn có nhịn ăn gián đoạn (intermittent fasting), ngoài ra còn gọi là ăn có giới hạn thời gian (time restricted feeding), và nó có vẻ như một khi một nhóm kiểu như đã ghim sâu vào một chế độ ăn uống cụ thể nào đó mà họ cảm thấy là có hiệu quả đối với họ vì bất kỳ lý do nào, về mặt năng lượng, mặt trí não, có lẽ họ nhìn vào hồ sơ máu của họ, có lẽ họ không. Nhưng một khi họ cảm thấy là nó có hiệu quả đối với họ, mỗi nhóm có vẻ như quảng cáo (tout) tất cả những lợi ích về sức khỏe và họ cảm thấy tốt khỏe mạnh như thế nào. Nó có thể là những ảnh hưởng về tư duy có liên quan gì ở đây chăng? Rằng người ta đang thấy những chương trình dinh dưỡng họ cảm thấy mang lại cho họ nhiều sự bồi dưỡng nhất ở trong cuộc sống, nhưng ngoài ra còn có những chất dinh dưỡng, và rằng sức khỏe của họ đang thực sự dịch chuyển theo một chiều hướng tốt tích cực, nhưng không nhất thiết là vì những thành phần trong thức ăn, nhưng bởi là vì cộng đồng vì những ý tưởng và sự củng cố.

AC: Yeah và đúng rồi, và niềm tin là đây là một cách đúng đắn để làm một việc gì đó. Tôi nghĩ là 100%, 100% điều đó có một cái gì đó để cống hiến vào và tôi sẽ không xen vào đưa ra ý kiến về cuộc tranh luận. Cái điều mà tôi chắc chắn sẽ đóng góp ý kiến vào, là khái niệm mà, hãy nhìn nè quay trở về với phản ứng giả dược, đúng không nào, chúng ta có một sự hiểu biết đã quá hạn về việc nó là gì, cái mà dựa vào cuộc thử nghiệm kiểm soát được ngẫu nhiên hóa, bạn so sánh một loại thuốc với một loại giả dược, nếu mà loại thuốc đó có hiệu quả tốt hơn so với giả dược, bạn nói, tuyệt vời, loại thuốc đó có hiệu quả, nếu loại thuốc đó không vượt trội hơn loại giả dược kia, bạn nói là loại thuốc đó không hiệu quả, nó thực sự là đơn giản hóa quá mức. Nó là một bài thử nghiệm tốt cho tính hiệu nghiệm của loại thuốc đó, nhưng nó không phải là một bài kiểm tra tốt cho việc hiểu được sự ảnh hưởng toàn phần của loại thuốc đó. Bởi vì trong thực tế của các thứ, nếu một loại thuốc vượt trội hơn giả dược thì lúc đó bạn biết đó bạn bắt đầu kê toa cho nó ra. Nhưng thực tế là, hiệu ứng toàn phần của loại thuốc đó, là một sản phẩm được kết hợp của những thuộc tính hóa học cụ thể (specific chemical attributes) của loại thuốc đó và bất cứ gì đang xảy ra trong hiệu ứng giả dược, cái mà, ít nhất là trong theo quan điểm của chúng tôi, những niềm tin, những ngữ cảnh xã hội và là khả năng tự nhiên của cơ thể bạn để phản ứng lại với một thứ gì đó. Vậy nên, bạn biết đó, đó là trong ví dụ về hiệu ứng giả dược. Điều tương tự cũng đúng cho tất cả những gì chúng ta làm hay tiêu thụ (consume). Nên nó hướng đến về chế độ dinh dưỡng nào bạn đang ăn theo, cả hai đều đúng. Nó có quan trọng là điều đó (nó) là gì và điều đó quan trọng là cái bạn nghĩ về chế độ ăn uống đó như thế nào và những người xung quanh bạn trong nền văn hóa của chúng ta nghĩ về chế độ dinh dưỡng đó. Bởi vì những ngữ cảnh xã hội đó thông tin đến những hệ tư duy của chúng ta, những hệ tư duy của chúng ta tương tác với hệ sinh lý của ta theo những cách mà sản sinh ra những kết quả mà rất là quan trọng. Vậy nên hãy đừng trở nên mang tính hai chiều thôi (dualistic) và nói là, nó hoặc là toàn ở trong đầu mình hay là nó không ở trong đầu mình. Và cũng hãy đừng trở nên quá hiếu chiến không cần thiết, và nói là, ồ, nó nên là tất cả từ nguồn gốc thực vật hay là keto hay là bất kỳ gì đó. Nó là tất cả những thứ đó là một sản phẩm được kết hợp lại của việc bạn đang thực sự làm việc gì và những gì bạn đang nghĩ về. Nếu bạn tin vào nó, nếu bạn không, nếu bạn ngờ hoặc (nghi ngờ, nghi hoặc) hay trong một vài trường hợp bạn nghĩ bạn nên ăn theo một cách cụ thể nào đó và bạn không đạt được theo chuẩn mực đó. Nó có lẽ có một hiệu ứng ngược bởi vì sự stress và nỗi lo liên quan đến đó.    

AH: Rất là thú vị. Cùng theo hướng bàn về những hiệu ứng về niềm tin, chúng ta có thể gọi chúng là hiệu ứng niềm tin hay là hệ tư duy không?

AC: Chắc chắn rồi, có thể, yeah.

AH: Có một sự khác biệt nào giữa những cái mà tôi gọi là những hiệu ứng niềm tin và hiệu ứng giả dược, ý tôi là, những hiệu ứng giả dược có sự khác biệt đáng kể (độc đáo) nào so với những hiệu ứng tư duy hay là chúng ít hay nhiều là cùng một thứ giống nhau.

AC: Chúng có liên quan với nhau. Nên tôi nghĩ là những hiệu ứng giả dược, bạn biết đó, có thể nên được lưu lại cho những tình trạng mà khi đó bạn đang thực sự đang thực hiện dùng một hiệu ứng giả dược, cái mà là một chất không có hoạt động. Khi bạn đi ra khỏi vùng giả dược so với thực dược, bạn biết đó, và bạn bắt đầu nhìn vào những hiệu ứng giả dược này, tôi đang dùng tay để diễn tả hai dấu ngoặc kép, trong sức khỏe hành vi, cụm từ đại loại như trở nên hơi rối bởi vì bạn đang không. Trong thí nghiệm về sinh tố, bạn biết đó, chúng tôi không có đưa cho những người tham dự loại sinh tố giả dược, phải không nào? Chúng tôi chỉ thay đổi cái mà họ tin tưởng về nó thôi. Vậy nên, cách mà tôi thích nghĩ về nó là, những hiệu ứng giả dược như chúng thường được giải thích (traditionally construed), được hợp thành bởi 3 thứ, đó là ngữ cảnh xã hội, hệ tư duy hay niềm tin, và những quá trình sinh lý tự nhiên trong não và cơ thể mà có thể sản xuất ra những kết quả đó. Vậy nên, chúng ta có thể gọi chúng là những hiệu ứng niềm tin bởi vì những niềm tin đang kích hoạt (triggering) những quá trình sinh lý và những niềm tin được định hình từ ngữ cảnh xã hội. Điều đó nghe có hợp lý không?

AH: Nó hợp lý. (AC: Yeah). Có một bài nghiên cứu một hay hai năm trước được xuất bản trong tạp chí Science về những vùng trong não có liên quan đến psychogenic fever (sốt do nguyên nhân tâm lý), ở đó mà con người và tôi nghĩ bạn cũng có thể thực hiện thí nghiệm này trên mẫu động vật cả nữa, để chúng nghĩ rằng chúng đang bị bệnh, bạn có sự tăng lên 1 đến 3 độ F trong nhiệt độ cơ thể, 1 đến 3 độ F sự tăng lên trong nhiệt độ cơ thể là khá là ấn tượng. (AC: Yeah) và tôi đoán là cũng có liên quan gần đến với lại những triệu chứng (symptomatology) nói chung bạn biết đó. Nên, tôi là một người tin vào những hiệu ứng niềm tin.

AC: Và tôi chỉ nói rằng, bạn biết đó, cụm từ mà chúng tôi dùng trong lĩnh vực của chúng tôi là, nocebo effect (hiệu ứng nocebo), cái mà kiểu như là người em kế xấu xí của placebo (Trong y học, nocebo là một chất vô hại nhưng có thể tạo ra tác dụng có hại cho bệnh nhân dùng nó. Hiệu ứng nocebo là phản ứng tiêu cực mà bệnh nhân trải qua khi nhận được nocebo. Ngược lại, một placebo là một chất trơ không có tác dụng gì nhưng nó lại có thể tạo ra các phản ứng tích cực cho người dùng nó. Wikipedia) bạn biết đó khi mà những niềm tin tiêu cực gây ra những hậu quả tiêu cực. Nên bạn được nói là bạn sẽ có, nó được cho thấy rất là rõ ràng là khi người ta được nói một số tác dụng phụ cụ thể nào đó, họ có nhiều khả năng hơn trải qua những tác dụng phụ đó. Khi người ta nghĩ là họ bị bệnh hay là sắp sửa bệnh đến nơi, đôi khi điều đó có thể tạo ra những triệu chứng dấu hiệu sinh lý. Và bạn biết đó, có những cuộc tranh luận là không phải chỉ là những thay đổi về sinh lý, ngoài ra nó còn là sự chú ý của bạn thay đổi, nên chúng ta đang trải nghiệm những thứ như mệt mỏi (fatigue) và nhức đầu và đau bụng (upset stomach) tất cả mọi lúc. Và rồi khi bạn uống dùng một loại thuốc nào đó và một ai đó (một người nào đó) nói là bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi và nhức đầu, bạn bắt đầu chú ý (để ý) là bạn mệt và rằng những cơn nhức đầu được gán cho loại thuốc đó. Vậy nên một số trong những cơ chế đó là sự chú ý và một số trong những cái đó là những thay đổi thực trong sinh lý.

AH: Tôi rất muốn cô kể cho chúng tôi nghe về cuộc thí nghiệm của những nhân viên ở trong khách sạn (hehe).

AC: Haha, yeah, chắc chắn rồi.

AH: Tôi biết cô được hỏi những câu hỏi này mọi lúc nhưng mà tôi thấy những kết quả này thật là tuyệt vời.

AC: Yeah, à không tôi thấy đây thực sự là một ví dụ rất là tốt của hiện tượng này, phải không nào? Rằng hiệu ứng tổng thể của bất kỳ thứ nào là một sản phẩm kết hợp của việc bạn đang làm cái gì và điều bạn đang nghĩ về việc bạn đang làm cái gì. Vậy nên đây là một nghiên cứu mà tôi chạy, thực hiện với Ellen Langer, hồi trước lâu rồi khi mà tôi còn là một sinh viên chưa tốt nghiệp thực sự là (undergrad) chúng tôi bắt đầu thí nghiệm này. Ellen Langer là một giáo sư thuốc phân nghành tâm lý học ở ĐH Harvard và cô ấy đã thực hiện làm khá nhiều những công trình nghiên cứu cực kỳ tuyệt vời (công phu, mở rộng tầm mắt, fascinating) theo khẩu vị của cô ấy về chánh niệm (on her flavor of mindfulness) cái mà khác biệt nhiều so với lại bạn biết đó kiểu tâm trí suy nghĩ phương Đông, bạn biết đó, những kiểu cách dựa trên chánh niệm của Phật giáo (Buddhist sort of mindfulness-based work). Và bạn biết đó, cô ấy chính là người mà nói với tôi ngay lúc bạn đầu, bạn biết đó, lúc tôi là một vận động viên hồi lúc đó, tôi là một vận động viên hockey (khúc côn cầu) và tôi phải luyện tập liên tục, và một ngày nào đó, tôi không bao giờ quên ngày đó, cô ấy nói, bạn biết đó lợi ích của việc luyện tập thể dục thể thao chỉ là một giả dược thôi (placebo) phải không nào? Và tôi kiểu như, điều đó thật là quá khích (outrageous), Ellen được biết đến qua việc nói ra những thứ rất là kích thích (gây bực tức, provocative) nhưng cũng là những thứ rất là thông thái, và câu nói đó thực sự làm tôi suy nghĩ về việc đó (khía cạnh đó). Vậy nên chúng tôi cùng nhau thiết kế cuộc thí nghiệm này và điều đó là để nhìn vào, bạn biết đó, làm sao bạn nghiên cứu nó đây, nếu mà những lợi ích của việc tập thể dục là một placebo (giả dược), thậm chí làm sao mà bạn có thể kiểm tra được điều đó? Bởi vì, điều đó nghĩa là gì để đưa ra một bài tập thể dục giả dược (placebo exercise)? Vậy nên chúng tôi hơi kiểu như đảo lộn đầu nó ngược lại lên và tìm một nhóm người mà đang tập thể dục rất là nhiều, nhưng mà không ý thức về điều đó (việc đó) là họ đang tập thể dục nhiều, phải không nào? Và vì thế, chúng tôi hạ cánh xuống một nhóm những quản gia khách sạn, vậy nên đây là những người phụ nữ đang làm việc trong khách sạn những người mà làm việc đứng trên chân của họ suốt cả ngày, đẩy xe, thay lót nệm (linen), leo cầu thang, bạn biết đó, lau chùi nhà tắm toa lét, hút bụi, điều đó là rõ ràng là họ đang có mức độ tập thể dục trên và hơn cả ít nhất ra là những yêu cầu chung của bác sĩ vào lúc đó, hay điều mà thường tích lũy thành 30 phút của việc tập thể dục (hoạt động thể chất) mức độ vừa hằng ngày (mỗi ngày). Nhưng điều mà thú vị là khi chúng tôi nhảy vào và khảo sát họ và hỏi họ, hey bao nhiêu mức tập thể dục mà các cô nghĩ các cô đang có? Một phần ba trong số họ nói là không, zero. Tôi không có sự hoạt động tập thể dục nào. Và sự phản hồi trung bình giống như là ở mức 3, trên thang mức từ 0 đến 10. Vậy nên nó thật là rõ ràng là mặc dù những người phụ nữ này hoạt động thể dục khá là năng động, họ không có hệ tư duy đó, phải không nòa? Họ có hệ tư duy là công việc của họ chỉ là công việc. Công việc cực nhọc và ít nhận được sự cảm ơn (hard, thankless work) mà dẫn đến cho họ cảm thấy mệt nhọc và đau mỏi nhức vào lúc cuối ngày. Nhưng không phải là nó là tốt cho họ, rằng nó là bài tập thể dục tốt. Vậy nên điều mà chúng tôi làm là chúng tôi tập hợp những người phụ nữ này và ngẫu nhiên phân họ thành 2 nhóm, và chúng tôi nói với một nửa trong số họ là công việc họ làm là có việc tập thể dục tốt (đúng đắn). Trong tình huống này, đó là thông tin đúng dựa trên sự thật, chúng tôi định hướng họ đến những chỉ dẫn chung của bác sĩ (surgeon general's guidelines) chúng tôi định hướng họ đến những lợi ích mà họ nên nhận được và rồi chúng tôi đã đo lường chúng trước đó về những số liệu sinh lý của họ như là cân nặng và lượng mỡ trong cơ thể và huyết áp. Và chúng tôi trở lại 4 tuần sau và chúng tôi kiểm tra họ lại lần nữa. Và điều mà chúng tôi tìm ra rằng những người phụ nữ này, mặc dù họ không có thay đổi bất cứ thứ gì trong hành vi của họ, ít nhất là có thể phát hiện ra được với những công cụ của chúng tôi (detectable to us), họ không làm việc (dọn) nhiều phòng hơn, họ không hề bắt đầu tập kéo đẩy hay là chống đẩy (pull up or push up) trong giữa lúc đang lau dọn phòng khách sạn, theo như tôi được biết. Họ không hề báo cáo bất cứ thay đổi nào trong chế độ ăn dinh dưỡng của họ, nhưng họ có những lợi ích về mặt sức khỏe của họ. Vậy nên, họ đã giảm cân. Họ giảm xuống huyết áp tâm thu của họ (systolic blood pressure) khoảng 10 điểm ở mức trung bình. Và họ bắt đầu cảm thấy tốt (khỏe) hơn về bản thân của họ, có thể của họ và công việc của họ, không ngạc nhiên gì cả.

AH: Điều đó thật là tuyệt vời. Chúng ta nên khái niệm hóa kết quả đó trong nỗ lực của chúng ta để có được nhiều hơn từ việc tập thể dục, phải không nào. Bởi vì trước đó, cô đã đề cập trong cuộc nghiên cứu về các loại sinh tố và những quan điểm (perception) cách nhìn của chúng ta về nồng độ chất dinh dưỡng (nutrient density), mà bạn biết đó, thông điệp đúng là nó thực sự hơi phản trực quan một chút xíu, rằng nếu bạn nghĩ là, ồ cái này thật là ít calo, không quá nhiều chất (nutrient sparse) thì có lẽ là nó tốt cho tôi trong ngữ cảnh của việc giảm cân ví dụ như vậy. Thì ra hóa ra điều ngược lại cũng là đúng bởi vì như cô đã nói với chúng tôi, cơ thể phản ứng khác nhau khi mà bạn nghĩ một cái gì đó là đầy đủ nhiều chất dinh dưỡng và nó thực sự là có thể đè ép đè nén xuống cơn đói (sự đói bụng). Theo như kết quả này, nếu mà tôi nói, ok, sự hiểu biết hiện tại của tôi về những tài liệu là có được việc tập thể dục cho sức khỏe tim mạch từ 150-180 phút mỗi tuần có lẽ là một ý tưởng tốt cho đa số nhiều người. Nếu tôi nói với bản thân là nó không chỉ là một ý tưởng tốt nhưng nó cực kỳ có hiệu quả trong việc làm giảm huyết áp của tôi và duy trì một cân nặng khỏe mạnh, vv, vv, theo những kết quả này, nó sẽ có một hiệu ứng tăng cường lên trên những thông số này. Điều đó có đúng không nào?

AC: Chắc chắn rồi. Vậy nên đây là một điểm rất là quan trọng bởi vì điều mà nó tiết lộ là rằng chúng ta phải trở nên chu đáo hơn (more thoughtful) trong việc làm sao chúng ta đi quanh việc động viên khích lệ mọi người tập thể dục hay là chỉ dạy mọi người về những lợi ích của nó. Cách tiếp cận hiện giờ của chúng ta là căn bản chỉ là nói với mọi người, một cách to lớn và rõ ràng (writ large), đây là cái mà bạn cần lấy được, đây là cái mà bạn cần có cần làm giỏi về bạn biết đó để có đủ lượng tập thể dục để đạt được những lợi ích về sức khỏe. Vấn đề của cách tiếp cận đó chính là, đa số mọi người không có đang đạt được đến những lợi ích, họ chưa đang đạt được những yêu cầu đó và nguy cơ của việc đó là, chà, ý định của việc đó là để tạo động lực động lực hóa cho họ bởi vì những người công chức về sức khỏe công chúng sức khỏe cộng đồng (public health officials) nghĩ là, chà, nếu tôi chỉ nói với mọi người là bạn cần có thêm tập thể dục nhiều hơn bởi vì là nó là tốt cho bạn thì họ sẽ làm điều đó. Chúng ta biết giờ đây là việc đó không hề hiệu quả tí nào, rằng những chỉ dẫn này (guidelines) là không có tạo động lực chúng không làm thay đổi hành vi của chúng ta. Và cái điều mà công trình nghiên cứu của chúng tôi thêm vào bổ sung vào đó là, không chỉ là nó không có tạo động lực (motivational), nó còn có thể tạo ra có khả năng là một hệ tư duy mà làm cho mọi người cảm thấy tồi tệ hơn so với việc họ không biết những chỉ dẫn kia (những chỉ dẫn tập thể dục kia). Và một lần nữa, nó khá là hóc búa (tricky). Tôi không đang nói là hệ tư duy là tất cả mọi thứ. Chắc chắn là tập thể dục là tốt cho chúng ta và có giúp ích cho chúng ta. Đó là một trong những thứ mà chúng ta có những dữ liệu tốt nhất về. Vậy nên, tôi không đang nói rằng ồ, việc tập thể dục tất cả đều là giả dược, cái mà tôi đang cố gắng nói là chúng ta cần lưu tâm hơn một xíu về làm sao chúng ta động viên mọi người tập thể dục, nhưng làm sao để chúng ta giúp mọi người làm sao để thực sự lấy được những lợi ích từ việc tập thể dục mà họ đã đang làm rồi. Và giờ đây, Octavia, là một sinh viên tốt nghiệp (grad student) trong phòng thí nghiệm của tôi, chạy một số nghiên cứu khá là thú vị lần theo những đường phương hướng này. Một cái trong số đó là cô ấy nhìn vào 3 tập hợp dữ liệu đại diện cho toàn quốc gia mà có một câu hỏi thú vị trong chúng đó là lượng tập thể dục của bạn bao nhiêu trong sự so sánh với những người khác? Bạn tập gần ngang bằng giống nhau, hơn chút it, hơn nhiều, bạn tập ít hơn hay là rất là ít hơn, phải không nào. Vậy nên, bạn biết đó, thính giả của bạn, những người nghe, bạn có thể trả lời hoàn toàn những câu hỏi này. Và rồi trong những tập dữ liệu này, cái mà cô ấy làm là, cô ấy rút từ những dữ liệu mà theo dõi tỉ lệ tử vong trong khoảng vòng 21 năm tới và một số thứ thú vị bắt đầu lộ hình lộ diện (hiện hình lộ diện). Một trong số đó là những mối liên quan (correlations) giữa những quan điểm về việc tập thể dục này so với những quan điểm khác, và việc tập thể dục thực sự của mọi người như là được đo qua những dữ liệu gia tốc kế (accelerometer data) cả về những kiểu như những dữ liệu kỹ càng nghiêm ngặt là bạn đã làm gì hôm nay. Những dữ liệu đó không có liên quan nhiều đến nhau cho lắm. (AH: Người ta nói dối). Chà người ta nói dối nhưng mà ngoài ra ... (AH: Hay là nhìn nhận quan điểm nhầm) Họ quan điểm nhầm hay là ai để nói nhỉ, đó là sự nhìn nhận nhầm quan điểm (it's misperceiving), mọi thứ đều tương đối (có liên quan đến nhau, relative) phải không nào. Tôi từng tập thể dục ba môn phối hợp rất là dữ dội, vậy nên nếu mà bạn hỏi tôi bây giờ, tôi cảm thấy như tôi hoàn toàn là không có hoạt động nhiều (totally inactive), phải không nào. Bởi vì tôi không đang tập một lượng mà gần như với những gì tôi đã từng và nếu như đó là tập hợp sự tập trung của tôi, phải không nào, tôi cảm thấy như tôi đang không tập thể dục đủ nhiều. Nhưng nếu tôi nghĩ về, bạn biết đó, so với những người khác, lấy nền là những gì tôi biết về những thống kê mang tính đại diện cho quốc gia, và tôi có thể cảm giác như, ồ, tôi cũng đang tập thể dục khá là nhiều đấy, phải không nào. Vậy nên bạn có thể thấy được làm sao những quan điểm cách nhìn nhận này được xóa gỡ cặp đôi với lại thực tế khách quan. Và điều mà chúng tôi tìm hiểu ra trong những cuộc nghiên cứu này đó là, chính câu hỏi đó (lượng tập thể dục của bạn bao nhiêu trong sự so sánh với những người khác?), có sự quan trọng trong một số trường hợp nhiều hơn là hoạt động khách quan, nhưng trong tất cả những trường hợp khá là kiểm soát cho những hoạt động khách quan và dự đoán được tỉ lệ tử vong và trong một trong số những mẫu nghiên cứu đó, nó là khoảng 71% nguy cơ cao hơn của tỉ lệ tử vong, bạn biết đó, nếu người ta đánh giá bản thân họ như là kiểu cảm giác họ đang tập thể dục (có ít hoạt động) hơn là những người khác (AH: Wow, đó là một việc lớn đó). Đúng rồi, đó là một việc lớn. Và một lần nữa, cuộc nghiên cứu đó là cross sectional, longitudinal (cắt ngang toàn dân số (lấy dữ liệu tự nhiên/quan sát tự nhiên), kéo dài qua thời gian) nó không phải là nghiên cứu mang tính thí nghiệm (experimental), nhưng kết hợp lại, những nghiên cứu này thực sự kiểu như móc nối lại (hòa hợp lại, coalesced) để nói lên rằng, ê nè, điều này cũng quan trọng cả nữa vậy, phải không nào. Như là kiểu là, hãy tìm ra những cách để trở nên năng động hơn và giúp mọi người trở nên năng động hơn, nhưng ngoài ra đừng làm cho mọi người cảm thấy tồi tệ về bản thân họ khi họ không tập đủ lượng tập thể dục. Và quay trở lại với nghiên cứu ở khách sạn một lần nữa, tôi đề cập là tôi thực hiện nghiên cứu đó vào lúc mà tôi là một vận động viên khúc côn cầu trên băng (ice hockey player) Hạng 1 (division 1). Chúng tôi được tập huấn luyện suốt tất cả mọi lúc, và tôi đã ở trong một hệ tư duy không lành mạnh về điều đó, tôi không bao giờ cảm thấy như tôi luyện tập đủ, tôi sẽ ra khỏi một buổi tập luyện 2 tiếng và vào một buổi tập nâng tạ, và rồi tôi sẽ ngồi lên máy chạy xe đạp tại chỗ (elliptical) khoảng 30 phút bởi vì tôi nghĩ tôi phải làm việc đó nữa ngoài ra. Những đồng đội mà cùng với tôi lúc đó có thể làm minh chứng cho điều đó. Và nên vậy đó, cuộc nghiên cứu đó rất là giúp ích cho tôi, để tôi nhận ra rằng tôi cần hướng sự chú ý đến việc không chỉ là tôi đang làm điều gì, nhưng ngoài ra còn chăm sóc hệ tư duy của tôi về việc đó. Và tôi nghĩ là bản chất là làm sao bạn có thể giúp mọi người cảm thấy như họ đang tập đủ lượng bài tập thể dục. Đó là cái cảm giác của sự đủ mà thực sự rất quan trọng.

AH: Yeah, tôi có thể nhìn thấy sự trái ngang (tình trạng tiến thoái lưỡng nan, dilemma) đó bởi vì bạn không muốn người ta nghĩ rằng việc tập thể dục và những hiệu ứng tích cực của nó khá là công hiệu đến mức mà họ có thể tập qua loa đi bộ 3 phút mỗi ngày và rằng họ ổn bởi vì đa số phần là họ không. Nhưng một lần nữa, bạn không muốn họ quá đỗi ngạc nhiên (quá sốc, back on their heels) theo mặt tâm lý rằng họ thậm chí không làm điều đó hay rằng họ chưa bao giờ vượt qua điều đó quá là nhiều. Nhưng nó có vẻ là thông điệp từ cuộc nghiên cứu các loại sinh tố và những gì chúng ta đang nói (đang bàn về) theo chủ đề tập thể dục là để có thể thực sự truyền thông (communicate) đến công chúng rằng thức ăn có một công lực (potency), thậm chí những đồ ăn thực phẩm có lợi cho sức khỏe có một công lực để cho chúng ta năng lượng để nạp năng lượng cho hệ miễn dịch và hệ endocrine của ta, vv. Và rằng việc luyện tập thể dục có một công lực khá đáng kể, và công lực đó có thể được nâng tầm nâng cao lên bằng việc tin vào hay là hiểu được công lực đó (AC: Chính xác). Đó có phải là một cách chính xác để nói về điều đó?

AC: Chắc chắn, toàn phần, cách nói đó là hoàn toàn chính xác. Và đó là nơi mà tôi cảm giác như thực sự chúng ta cần phải đẩy mạnh và cái mà tôi cố gắng làm trong những nghiên cứu của tôi là không chỉ cho thấy rằng, ồ, hệ tư duy có sự quan trọng, điều đó không thú vị sao? Nhưng cả hai thứ đều quan trọng, phải không nào? Cả hai việc tập thể dục và những gì bạn nghĩ về nó đều quan trọng. Cả những gì bạn ăn và cách mà bạn suy nghĩ về những gì bạn ăn cũng quan trọng. Và rồi vậy nên, chúng ta thực sự, là những cá nhân và là một xã hội, cần phải làm việc trên, đâu là con đường đi đúng đắn để phát triển (cultivate) cả những hành vi và hệ tư duy về những hành vi đó mà phục vụ cho chúng ta? Và trong ngữ cảnh thức ăn, thí nghiệm về các loại sinh tố đó thực sự thay đổi tôi về mặt cá nhân bởi vì tôi là một người mà luôn luôn cố gắng hạn chế lại việc ăn uống của tôi, phải không nào? Tôi muốn duy trì hay là giảm cân, nhìn thân hình cân đối vừa vặn. Và giống như tôi giống như chà tôi nên giảm cân (diet) và tôi nên có những thực phẩm ít calo, ít tinh bột (bột đường), nhưng cái mà điều đó làm là đặt tôi vào trong hệ tư duy của sự kiềm nén liên tục. Và điều mà cuộc nghiên cứu đó gợi ý ra rằng, là hệ tư duy đó đang chống lại bất kỳ những lợi ích hay hiệu ứng khách quan nào của chế độ ăn uống (dinh dưỡng) được kiềm chế. Bởi vì, não tôi đang nói, ok, bạn đang kiềm hãm (kiềm chế) lại, có lẽ cơ thể tôi đang phản ứng lại với điều đó, nhưng não tôi cũng đang nói, ăn thêm nhiều đồ ăn thêm đi, đừng nhịn đói bởi vì bạn cần phải sinh tồn. Và rồi, câu trả lời không phải là, ồ, chúng tôi sẽ thảy tất cả mọi thứ vào trong gió và chỉ uống những loại sinh tố gây thèm thuồng (indulgent milkshake) suốt cả ngày. Câu trả lời là, hãy ăn những thức ăn khỏe lành mạnh, phải không nào? Dựa trên những nghiên cứu khoa học mới nhất và cái mà chúng tôi biết là thật (đúng sự thật) về các chất dinh dưỡng và phản ứng của cơ thể chúng ta về chúng, nhưng hãy cố gắng làm việc đó trong một hệ tư duy của sự tận hưởng, một hệ tư duy của sự tận hưởng (sự hài lòng), một hệ tư duy của sự hưởng thụ, phải không nào? Đó mới chính là mánh khóe đó (the trick). Và đó ít nhất là điều mà tôi cố gắng làm trong cả cuộc sống cá nhân của tôi.

AH: Tôi rất thích điều đó, và khi tôi có liên quan nhiều hơn vào những sự truyền thông chống lại sự tiếp xúc trực diện với công chúng về sức khỏe, thì việc này lại nảy ra lần nữa và lần nữa, là làm sao để chúng ta có thể khái niệm hóa hành vi của chúng ta? Làm sao để chúng ta nên nghĩ về tất cả những lựa chọn này mà được đưa ra cho chúng ta. Và tôi hào hứng là sự công hiệu (potency) của những hệ tư duy đang diễn biến qua lần nữa và lần nữa. Vậy nên, tôi có một câu hỏi về việc này và tôi không biết liệu cuộc nghiên cứu này đã bao giờ được thực hiện chưa, nhưng rất là nhiều những hiệu ứng hệ tư duy này là một thứ mà những năm về trước, tôi cảm giác như tôi làm giấc ngủ mặt đối mặt (vis-a-vis sleep) bởi vì tôi đang ở trong trường đại học (graduate school) và là một học sinh hậu tiến sĩ (postdoc) và thậm chí là khi còn là một sinh viên (undergraduate) tôi có quá nhiều việc phải làm và rằng tôi quyết định là tôi sẽ ngủ khi mà tôi 'chết' không phải là một ý tưởng tốt từ những gì mà chúng ta biết. Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng một vài đêm ngủ vừa mức sàng (ngủ vừa đủ, vừa ít minimal sleep) hay thậm chí là thức trắng nguyên đêm, tôi có thể làm được chịu đựng được khá là tốt. Đến cuối cùng thì nó sẽ đuổi kịp theo tôi (eventually it would catch up with me). Có bao giờ có một nghiên cứu mà khám phá ra rằng liệu rằng có hay không những hiệu ứng của việc thiếu ngủ có thể chịu ảnh hưởng của những hiệu ứng hệ tư duy này? Bởi vì qua các năm, tôi liên tục học được nhiều hơn và nhiều hơn về việc tôi cần ngủ bao nhiêu và tôi thực sự đã nhấn mạnh nó nhưng tôi thực sự cảm thấy tốt/khỏe hơn khi mà tôi có đủ (ngủ đủ giấc). Nhưng như là những người mới làm cha mẹ biết, hay những học sinh biết hay là những vận động viên biết hay bất cứ ai mà sống một cuộc sống bình thường có thể thấy là đôi khi họ không có một giấc ngủ buổi tối ngon, liệu rằng việc tin tưởng rằng chúng ta có thể chịu đựng điều đó và đẩy qua việc đó và hoạt động ổn thôi, và rằng nó sẽ không giết chết chúng ta hay gây cho ta bệnh Alzheimer's, liệu rằng điều đó có thể giúp chúng ta xử lý với lại một giấc ngủ buổi tối không được ngon, hay thậm chí là hai buổi hay là sự thiếu ngủ trầm trọng (chronic sleep deprivation)?

AC: Chắc chắn rồi, tôi đoán. Có một bài nghiên cứu theo như sự hiểu biết của tôi mà đã nghiên cứu thử nghiệm kiểm tra qua điều đó. (Tên một nhà nghiên cứu) và những cộng sự đồng nghiệp, họ nhìn vào họ xem xét, họ mang những người tham gia đến và cho họ tôi nghĩ là nó là kiểu bài kiểm tra EEG giả (dựng lên, sahm sort of EEG test) để tìm hiểu ra làm sao, nghiên cứu này được làm khoảng vài năm trước đây tính đến nay rồi, và giờ chúng ta đã có những thiết bị để kiểm tra điều này nhưng có một bài test dựng lên này (sham test) và họ đưa cho người tham dự những phản hồi giả (fake feedback) về chất lượng giấc ngủ của họ và giấc ngủ đêm trước đó đã như thế nào và họ cũng hỏi những người tham gia họ cảm giác như thế nào về giấc ngủ của họ và bản chất là cái mà họ tìm thấy đó là sự phản hồi giả này (this sham feedback) nếu mà họ được nói là chất lượng giấc ngủ thấp hơn dẫn đến những sự thiếu hụt (deficits) trong một lượng nhiệm vụ (tác vụ) nhận thức (cognitive tasks) và điều đó thực sự là được tách đôi ra từ những chất lượng giấc ngủ thật sự của họ, ít nhất ít ra là theo như báo cáo tự thân (tự báo cáo). Vậy nên đó là một bài nghiên cứu mà có thể minh chứng cho việc này tôi nghĩ là chắc chắn là, ý tôi là tôi sẽ cá rất là nhiều tiền, tôi không chạy những nghiên cứu này bản thân tôi nhưng rằng hệ tư duy của bạn đẩy qua lại sự hoạt động thần kinh (cognitive functioning), những hiệu ứng sinh lý của giấc ngủ. Nhưng một lần nữa, nó không phải được ăn cả ngả về không (tất là hay không là gì cả), phải không nào? (AH: Đúng vậy) Còn có những lợi ích thật sự của giấc ngủ và ở xa đến mức nào chúng ta có thể đẩy điều đó vòng qua bằng hệ tư duy của ta là một câu hỏi còn để mở.  

AH: Cô biết gì không, những kết quả mà cô đề cập rất là thú vị bởi vì nhiều người dùng những công cụ theo dõi giấc ngủ ngày nay, họ đang dùng nhẫn hay là vòng đeo tay. Trong thực tế, phòng thí nghiệm của tôi làm việc rất gần gũi (chặt chẽ) với lại một công ty mà cung cấp cho chúng tôi dữ liệu về mọi người ngủ ngon giấc đến mức nào và bạn có một điểm số, người ta có một điểm số trả về lại. Khi họ nhìn thấy con số đó, họ có thể nghĩ dựa trên những kết quả này, ôi trời, điểm số phục hồi và điểm số giấc ngủ của tôi thật là thấp, tôi không nên kỳ vọng quá nhiều từ bản thân tôi hôm nay, hay nó có lý là trí nhớ của tôi sẽ bay đi (vụt bay đi) và có lẽ tôi sẽ mất một vài người bạn bằng việc nói điều này nhưng mà hy vọng là tôi sẽ có một vài người bạn mới nữa. Đó là lý do vì sao tôi thích chỉ việc cho một điểm số khách quan cho bản thân tôi. Tôi chỉ thức dậy vào buổi sáng và tôi chỉ quyết định, ok, tôi có ngủ đủ ngon hay chưa. Tôi không thích nhìn thấy một con số. Tôi không thích có một chỉ số đọc ra từ một thiết bị, đó chỉ là tôi, tôi biết rất là nhiều người thích điều đó / việc đó và chúng có thể rất là hữu dụng nhưng mà Chúa ơi, nó có vẻ như những hiệu ứng niềm tin này được đang dệt lại (weaving) theo tất cả những mức độ. Tôi rất muốn cho chúng ta thảo luận về stress, bởi vì phòng thí nghiệm của cô đã nghiên cứu rất sâu kỹ về việc này. Và nếu bạn sẽ, bạn có thể nói cho chúng tôi, ở một thời điểm nào đó về cuộc nghiên cứu mà cô đã thực hiện về việc thông báo cho người tham gia về những hiệu ứng khác nhau của stress. Nhưng ngoài ra, nếu mà có cơ hội, một số điều rút ra được về việc làm sao chúng ta khái niệm hóa stress theo (trong) những cách mà sẽ phục vụ cho chúng ta tốt hơn so với việc làm hại chúng ta và sự hoạt động (performance) về tinh thần và thể chất (mental and physical performance).

AC: Tuyệt vời, yeah, vậy nên tôi đã liên theo đuổi việc thực hiện một số nghiên cứu trong việc tập thể dục và chế độ dinh dưỡng và tìm ra những hiệu ứng gợi ý mạnh (provocative) và ngoài ra còn phản trực quan (counterintuitive) với việc làm sao để động viên mọi người, phải không nào? Và rồi, bạn biết đó, như kiểu tôi đang nghĩ về việc này và việc phân nhóm của việc đi từ thuốc hướng đến việc cứu chữa cho chúng ta đến những hành vi hướng đến việc giải cứu giúp chúng ta và làm sao những hành vi đó có thể chịu ảnh hưởng của hệ tư duy. Là thứ rõ ràng tiếp theo để nghĩ về stress, phải không nào? Bởi vì nó giống như, ok, bạn muốn trở nên mạnh khỏe hơn và hãy chỉnh lại chế độ ăn dinh dưỡng của bạn, chỉnh sửa lại việc tập thể dục của bạn và hãy bớt stress lại đi. Và rồi vậy nên tôi bắt đầu đào sâu nghiên cứu về bản chất của stress, và một số thứ đã trở nên rõ ràng hơn, một trong số đó là thông điệp về sức khỏe công chúng (công cộng) là rất là rõ ràng, phải không nào? Rằng stress là xấu, phải không nào? Không hạn chế và gây có hại cho sức khỏe của chúng ta, năng suất của chúng ta, những mối quan hệ của chúng ta, khả năng sinh sản của chúng ta, khả năng nhận thức (cognition) của chúng ta, bạn có thể kể tên bất kỳ điều đó, phải không nào? Và những thông điệp mà ở ngoài đó, nhìn chung là những thông điệp được đơn giản quá mức, tập trung vào những hậu quả gây tổn hại của stress, nhưng như anh biết đó, nếu anh thực sự tìm hiểu đi vào sâu hơn về những tài liệu về stress và những nguồn gốc của stress, cái mà anh sẽ tìm ra là, những tài liệu về stress như đa số những tài liệu là không quá rõ ràng. Và trong thực tế, có một lượng lớn minh chứng là để ủng hộ cho sự thật là sự trải nghiệm qua stress, có nghĩa là đối diện với nghịch cảnh hay là thách thức (thử thách) encountering adversity or challenge, trong những nỗ lực của một người vì việc liên quan đến hoàn thành những mục tiêu không nhất thiết phải là gây hại, gây suy nhược đến thế (debilitating). Và trong nhiều trường hợp, phản ứng của cơ thể được thiết kế để làm tăng lên khả năng của chúng ta để quản lý trong những khoảnh khắc (những lúc đó), phải không nào? Vậy nên một số nghiên cứu chỉ ra rằng stress làm hẹp lại sự tập trung của ta, tăng lên sự chú ý của ta, làm gia tăng tốc lên mức độ mà ta có thể xử lý thông tin. Có một số nghiên cứu ngoài kia cho thấy rằng hiện tượng này của việc cứng rắn lên về mặt sinh lý (physiological toughening), quá trình mà trong đó sự giải phóng của những hoc môn dị hóa (catabolic hormones, dị hóa (catabolism) là tập hợp các phản ứng sinh hóa nhằm mục đích phá vỡ các phân tử phức tạp thành các phân tử đơn giản hơn để giải phóng năng lượng cho hoạt động sống (Hellobacsi)) và phản ứng stress tuyển vào hay là kích hoạt những hóc môn đồng hóa (anabolic hormones), những cái mà giúp như là anh đã biết giúp xây dựng lên cơ bắp của ta, xây dựng lên những nơ ron của ta, để giúp chúng ta phát triển và học tập. Và có cả một khối lượng đang hiện lên trong phần nghiên cứu về việc sự phát triển sau cơn sang chấn (post-traumatic growth) hay hiện tượng này mà trong đó thậm chí trong sự kiện của những tác nhân gây stress gây sang chấn (the most traumatic stressors), những tác nhân gây stress mãn tính và kéo dài (chronic and enduring stressors) có thể dẫn đến không phải là sự phá hủy, nhưng trong thực tế, dẫn đến chính điều ngược lại (the exact opposite), đến một cảm giác tăng cường hơn về sự kết nối với những giá trị của chúng ta, sự kết nối với những (mọi) người khác, cảm giác của niềm vui (joy) và một niềm đam mê cho cuộc sống (passion for living). Và rồi, bạn biết đó, tôi thấy điều đó khá là thú vị. Và công trình nghiên cứu của tôi kể từ đó là không phải cố để tranh luận là rằng stress là mang sự vững cường (enhancing) chứ không phải là gây hại (debilitating), nhưng cố gắng chỉ ra rằng bản chất thực sự của stress là một nghịch lý (paradox). Bản chất thực của stress là gồm nhiều mặt và phức tạp và rất nhiều thứ có thể xảy ra, nhưng để đặt ra câu hỏi, vai trò của hệ tư duy của ta về stress là gì trong việc định hình phản ứng của ta về stress. Vậy nên một số sự nghiên cứu đã được thực hiện nhìn vào quan điểm cách nhìn nhận của bạn về tác nhân gây stress, phải không nào? Vậy nên, bạn có xem tác nhân gây stress là một bài kiểm tra đầy thử thách (thách thức) hay một chẩn đoán sức khỏe là một thử thách hay là một mối đe dọa. Và điều đó đã cho thấy khá là thuyết phục là khi bạn xem những tác nhân gây stress nhiều hơn như là một sự thách thức (mối thách thức), và ít hơn là một mối đe dọa, rằng não và cơ thể bạn phản ứng lại theo điều kiện theo một cách rất là thích nghi. Cái mà câu hỏi của chúng tôi đặt ra là, kiểu như lấy sự trừu tượng (abstraction) về mặt tâm lý (psychological), cách lĩnh hội thế giới (construal) một bước cao hơn nữa, không chỉ là tác nhân gây stress nhưng mà là cả bản chất của stress, phải không nào? Bạn biết đó, ở trong mức cốt lõi đó, bạn có xem stress là một thứ gì đó là xấu, sẽ giết chết chúng ta và vì thế nên được tránh xa, hay rằng bạn xem một số lượng stress là tự nhiên (natural) và là một thứ gì đó mà sẽ làm cường thịnh hơn (enhance) chúng ta? Và rồi vậy nên, chúng tôi bắt đầu ra thiết kế một chuỗi những nghiên cứu ở mức độ đến mức mà những hệ tư duy này về stress có tầm quan trọng. Chúng tôi đầu tiên, điều này một lần nữa là, chúng tôi hợp tác với Peter Salovey và Shawn Achor, lúc ban đầu, chúng tôi thiết kế một phương pháp (phương thức) để thử kiểm tra hệ tư duy của mọi người về stress. Những câu hỏi đơn giản như, đến mức nào mà bạn tin hay là đồng ý hay không đồng ý với những câu như, stress làm tăng cường lên khả năng hoạt động và năng suất của tôi (performance and productivity), stress làm tăng cao lên sức sống của tôi và sự phát triển và chúng tôi tìm ra trong một số bài nghiên cứu xem sự liên quan (correlational studies) là những hệ tư duy về stress mang tính tăng cường có liên quan đến những kết quả về sức khỏe tốt hơn, sức khỏe tốt hơn và sự vận hành cao hơn (better wellbeing and higher performance). Vậy nên chúng tôi bắt đầu bắt tay vào và nghiên cứu liệu xem chúng ta có thể thay đổi hệ tư duy của con người. Và trong cuộc thử nghiệm (bài kiểm tra) đầu tiên của chúng tôi về việc này chúng tôi đã quyết định làm việc đó bằng cách tạo ra những đoạn phim đa phương tiện mà cho thấy những nghiên cứu, những bằng chứng truyền miệng (giai thoại, anecdotes), những sự thật về stress, tất cả đều đúng, nhưng định hướng thiên về hơn một hệ tư duy này hay là một hệ tư duy khác, phải không nào? Vậy nên bạn có thể tưởng tượng một nhóm phim cho thấy căn bản là những thông điệp mà được truyền tải ra ngoài kia trong ngữ cảnh sức khỏe công chúng (cộng đồng, public health context). Một nhóm phim còn lại cho thấy, êy, bạn biết đó stress được stress có liên quan đến những thứ này, nhưng trong thực tế phản ứng stress của cơ thể được thiết kế để thực hiện để làm việc này việc này. Bạn có biết là nó còn có thể làm điều đó không? Và chúng tôi có những hình ảnh tạo động lực, tạo nên sức mạnh như là LeBron James thực hiện thành công cú ném tự do trong phút cuối so với việc ném trượt, phải không nào? Vậy nên tất cả những thứ này là đúng sự thật, những khả năng có thật, nhưng được định hướng đến hai hệ tư duy khác nhau về stress.

AH: Vậy nên, hoặc là người ta xem đoạn video mà khiến cho nó trông có vẻ như stress sẽ làm giảm bớt, đè nén (vụn nát) bạn, hay làm giảm bạn hay một video rất là tương tự là stress sẽ làm cho bạn phát triển, mang ra mặt tốt nhất của bạn, và có lẽ thậm chí đưa bạn đến những mức độ cao hơn của sự vận hành (heightened levels of performance) mà bạn chưa từng bao giờ trải nghiệm qua.

AC: Chính xác rồi, chính xác rồi. Vậy nên, yeah, những ví dụ trong những môn thể thao chúng tôi có như là những người lãnh đạo thực sự trồi dậy nên trong những giây phút stress nhiều nhất, bạn biết đó, như là Churchill và vậy đó tất cả những ví dụ đã có sẵn ngoài kia cho cả về mặt bản chất tăng cường tích cự và mặt bản chất gây hại. Và câu hỏi của chúng tôi là, liệu việc định hướng mọi người đến những hệ tư duy có thay đổi cách làm sao họ phản ứng lại với stress? Vậy nên bài nghiên cứu này được thực hiện sau vụ khủng hoảng tài chính 2008 (in the wake of the 2008 financial crisis), chúng tôi làm việc với UBS, một công ty, một công ty dịch vụ tài chính mà đang phải trải qua những số lượng cho thôi việc lớn (pretty massive amounts of layoffs). Vậy nên những nhân viên này khá là stress về việc bị sa thải, họ chịu nhận lên nhiều hơn những áp lực, đó là một khoảng thời gian khó khăn, và chúng tôi chia ngẫu nhiên hóa họ ra thành 3 tình trạng khác nhau, và tất cả cái này là công việc chuẩn bị trước trước khi nhận được bất cứ sự huấn luyện nào về stress, nhưng 3 tình trạng khác nhau là, một số không xem video nào cả, một số xem những đoạn video đầy căng thẳng vùi dập, và một số xem những video nói về stress có thể làm cho bạn mạnh lên (tăng cường lên). Và điều mà chúng tôi khám phá ra rằng, chỉ thông qua việc (chỉ bằng việc), đó là tổng cồng là 9 phút video suốt một tuần, đã dẫn đến sự thay đổi về những hệ tư duy của họ về stress, điều mà dẫn đến những thay đổi về những triệu chứng sinh lý của họ có liên quan đến stress. Vậy nên những người xem những đoạn phim mang tính tăng cường có ít hơn sự đau lưng, căng cơ, mất ngủ, nhịp tim đập nhanh và vv. Và họ cũng báo cáo là vận hành (làm việc) tốt hơn ở chỗ làm so với những người xem những đoạn phim gây hại. Và thú vị thay, chúng tôi không làm cho bất cứ ai trong số họ cảm thấy tệ hơn sau khi xem những đoạn phim nói về stress gây hại. (AH: Ồ điều đó là tốt) đó là điều tốt, chúng tôi bảo rằng (IRB: Instituitional Review Board, Ban đánh giá thể chế) chúng tôi không kỳ vọng rằng bởi vì thông điệp đó đang được truyền phát ở ngoài kia rồi, đó là những cái mà họ đã đang thấy rồi, đó không phải là những điều mới đối với họ. Nó là kiểu như là cái khía cạnh tăng cường (enhancing perspective) này mà hóa ra lại trở thành thứ có thể tạo cảm hứng (truyền cảm hứng).

AH: Tôi rất thích cuộc nghiên cứu đó, và tôi biết là chúng ta đều có cả những người bạn và mối liên kết (friends and ties) trong cộng đồng hoạt động đặc biệt (special operations) thông qua có lẽ là chỉ là dịp may hay là tình cờ và có lẽ chúng ta sẽ vào chủ đề đó một lúc sau, nhưng mà một người bạn tốt từ cộng đồng đó luôn luôn nói, chỉ có 3 cách để đi qua cuộc sống trong bất cứ lúc nào, hoặc là dựa ngả về gót của bạn, bằng phẳng chân hay là tiến tới trọng tâm của cân nặng, (AC: Haha) và tôi nói chà chà chìa khóa của việc tiến tới trọng tâm của sức nặng là gì, và anh ấy nói là stress, stress là cái mà đặt bạn vào trong trọng tâm tiến tói của sức nặng (trọng lực) nghĩa là nghiêng tới và đi thẳng vào thử thách. Và tôi biết rằng bạn thực sự đã nhìn vào cộng đồng đó và nó thực sự trông có vẻ là đó là một hệ tư duy mà hoặc là họ có khi tham gia vào hay là họ xây dựng, dựng tạo nên qua quá trình luyện tập tập huấn (training). Nhưng khái niệm này là stress đặt chúng ta vào sự chuyển động tiến tới (forward motion), là đúng xét về mặt sinh lý phải không nào. Ý tôi là, vai trò chính của adrenaline là đặt chúng ta vào một lúc (một khoảnh khắc), hay thiên kiến chúng ta hướng đến một hành động nào đó đó là lý do mà chúng ta run rẩy run lắc, đó là cơ thể của ta cố gắng kích động đưa ta vào hành động nào đó. Nhưng thực tế ra đây thực là một cơ hội thật tốt, nếu có bất kỳ thứ gì thú vị để trích ra từ nghiên cứu về những đội nhóm SEAL, thì điều đó là gì?

AC: Yeah, tôi rất thích làm việc với SEAL và một trong những thứ thú vị mà chúng tôi khám phá ra rằng, chúng tôi đã nghiên cứu điều này, đo lường hệ tư duy này trong một vài những dân số khác nhau. Và trong bất cứ mỗi nhóm dân số mà chúng tôi kiểm tra qua cho đến bây giờ, thì mức bình quân là đang ở trên nghiêng về phía gây hại nhiều hơn của thang mức (AH: Người ta nói là stress là xấu) Stress là xấu, đúng không nào. Bạn biết đó, như là những đo lường về những hệ tư duy phát triển và cố định về trí thông minh, mọi người ở khoảng giữa, nhưng nhiều lúc có những hệ tư duy tích cực hơn về trí thông minh. Đó không phải là trường hợp với stress, đó vẫn không phải là trường hợp, tôi đang cố gắng truyền tải thông điệp ra ngoài kia, ngoài trừ nhóm SEAL Hải Quân này. Vậy nên họ thực sự là những người được tuyển dụng, nên những người mà được trải qua những sự tập huấn tập luyện căn bản để trở thành những SEAL Hải Quân và chúng tôi tìm ra là họ trên bình quân có hệ tư duy về stress mang tính tăng cường, có lẽ không quá đỗi ngạc nhiên phải không nào? Nếu bạn sắp cống hiến cả cuộc đời của bạn để trở thành một SEAL Hải Quân, bạn chắc chắn phải có một thiên hướng nghiêng về rằng stress là một nguồn sức mạnh cho bạn phải không nào. Nhưng điều mà chúng tôi tìm ra với họ là, chúng tôi đo lường điều này ở phần đầu của những tập huấn căn bản của họ, của những buổi tập huấn nhú mầm non, và rồi nhìn vào họ hoàn thành thực hiện tốt đến mức nào qua chương trình đó, vậy nên bạn biết, đây là một chương trình cực kỳ khắc nghiệt (rigorous). Và vào thời đó, chỉ có cỡ khoảng 10-20% của những tập luyện viên (trainees) (AH: Vẫn là như vậy, con số chưa bao giờ dịch chuyển cả. Dù áp lực lên cộng đồng áp bức mạnh thay đổi như thế nào, những con số vẫn là ở mức trung bình, khoảng 15%) (AC: Yeah, wow). Vậy nên những gì mà chúng tôi tìm ra rằng phương thức của chúng tôi dự đoán mức đó. Vậy nên những người thậm chí ở trong khung mức đó có một hệ tư duy stress mang tính tăng cường có khả năng cao hơn để hoàn thành tập huấn và trở thành một SEAL thực thụ. Họ ngoài ra còn có những thời gian hoàn thành vượt qua khóa học chướng ngại vật nhanh hơn (faster obstacle course times) và họ được đánh giá bởi đồng nghiệp của họ tích cực hơn. Vậy nên, một lần nữa, hãy tháo gỡ điều này chia nhỏ nó ra, phải không nào. Điều này không có nghĩa là, và người ta đôi khi hiểu lầm điều này, họ nghĩ là tôi đang nói là một hệ tư duy stress tăng cường là bạn nên thích stress, phải không nào? Chà, có lẽ những bạn trong SEAL thích, nhưng đó không phải là điều mà chúng ta đang nói phải không nào. Có được một hệ tư duy stress tăng cường không có nghĩa là tác nhân gây stress là một thứ tốt, phải không nào. Nó không có nghĩa là đó là một điều tốt mà bạn phải đi nhào đầu vào chống chọi và nó không tươi đẹp chút nào, phải không nào? Nó không có nghĩa là việc chẩn đoán bệnh ung thư là một việc tốt hay là sự nghèo đói (abject poverty) là một điều tốt. Đây không phải là những điều tốt. Nhưng trải nghiệm của stress có liên quan đến những việc đó, thử thách đó, nghịch cảnh đó (adversity) trải nghiệm đó có thể dẫn đến những kết quả mang tính tăng cường với không chỉ nhận thức của ta (our cognition), nhưng mà cả sức khỏe của ta, sự vận hành (performance) của ta và sự hạnh phúc của ta (well-being). Vậy nên hệ tư duy đó, phải không nào? Cái đó nó hoạt động như thế nào, phải không nào. Điều đó hoạt động thông qua một số con đường khác nhau. Một trong số đó là nó thay đổi về mặt căn bản cái mà chúng ta có động lực để làm. Vậy nên nếu bạn có thể hình dung ra chúng ta stress về một thứ (việc) gì đó, có lẽ là cơn đại dịch toàn cầu này, ví dụ (AH: Ví dụ như) Và bạn nghĩ rằng stress là xấu, vậy thì động lực của bạn là gì, phải không nào. Động lực của bạn là để, chà, đầu tiên bạn lo lắng về stress, phải không nào? Và bây giờ, không chỉ là bạn đang có cơn đại dịch, bạn stress về sự căng thẳng về cơn đại dịch. Nhưng cái thứ hai là, phản ứng của bạn là thường thường là một trong hai thứ. Đó là hoặc là gây hố lên (freak out) và làm tất cả mọi thứ bạn có thể để đảm bảo rằng việc này không gây ảnh hưởng đến bạn theo một hướng tiêu cực, hay là thoát ra và nói là ồ đó không phải là một chuyện to tát, tôi sẽ không xử lý điều đó, bạn căn bản là đang ở trong sự cự tuyệt (chống cự, phủ nhận, denial). Vậy nên những ai mà có hệ tư duy stress gây hại và chúng tôi đã cho thấy điều này trong nghiên cứu của chúng tôi có xu hướng đi đến một trong hai thái cực đỉnh điểm đó. Họ rối loạn lên hay là họ thoái lui (they freak out or they check out), tại sao? Bởi vì nếu stress là xấu bạn cần phải hoặc là loại bỏ nó và giải quyết nó hay là nó cần là không tồn tại, phải không nào? Nếu bạn có một hệ tư duy stress tăng cường, thì động lực sẽ thay đổi, phải không nào? Và rồi động lực lúc đó là, làm sao để tôi tận dụng stress của tôi để hiện thực hóa những kết quả mang tính tăng cường? Điều gì mà tôi có thể làm ở đây, phải không nào? Để có thể học hỏi từ trải nghiệm này, để làm cho chúng ta mạnh hơn, thon thả (vừa vặn, thon gọn hơn) và bạn biết đó có khoa học và những phương thức điều trị tốt hơn cho tương lai, làm đậm sâu sắc hơn mối quan hệ của tôi với những người khác, làm cải thiện những ưu tiên của tôi và vân vân, phải không nào? Vậy nên động lực thay đổi, hiệu ứng xung quanh nó thay đổi, không có làm cho nó dễ dàng để giải quyết xử lý nó. Nhưng cái mà chúng tôi đã cho thấy trong nghiên cứu của chúng tôi là người nào mà có những hệ tư duy stress tăng cường có cảm giác tích cực hơn (positive affect), không nhất thiết là một cảm xúc ít tiêu cực hơn, và nó có khả năng là thay đổi về mặt sinh lý. Chúng tôi có một vài những bài nghiên cứu mà cho thấy rằng những người mà được truyền cảm hứng để thâu nhặt những hệ tư duy tăng cường hơn, có phản ứng hóc môn cortisol ở mức vừa trung bình (moderate cortisol response) và rằng họ có lượng DHA cao hơn như là phản ứng với stress. Vậy nên, nhiều công việc hơn cần được thực hiện về mặt sinh lý, nhưng tôi rất là thích nghe ý kiến của bạn về những cơ chế mà qua đó điều đó có thể thực hiện được.

AH: Vâng, và DHA tất nhiên là một hóc môn đồng hóa (anabolic hormone) trong cả đàn ông và phụ nữ. Rất là thú vị, bởi vì chúng tôi có một người khách mời trên chương trình podcast này, ông ấy thực ra là một nhà khoa học có văn bằng PhD người mà chạy quản lý Viện Đào Tạo Nghiệp Vụ (Vận Hành) UFC (Ultimate Fighting Championship) tên ông ấy là Duncan French. Và công trình nghiên cứu lúc tốt nghiệp của ông ấy ở những cửa hàng Yukon rất là thú vị. Nó là về khoa học thể chất và sinh lý. Điều mà ông ấy cho thấy là, nếu bạn có thể kích lên phản ứng adrenaline, tôi nghĩ họ thực hiện làm điều này qua lần đầu tiên chơi nhảy dù (first time skydive) hay điều gì tương tự như thế, lượng hóc môn testoterone tăng lên, vậy nên điều này phun nhổ vào mặt của tất cả mọi thứ mà chúng ta được cho biết về stress và lượng hóc môn testosterone phải không nào. Điều này cũng được nghiên cứu trên nữ với estrogen, mặc dù tất nhiên là, có cả estrogen và testosterone ở cả nam và nữ nhưng đó là cách làm sao họ thiết kế cuộc nghiên cứu này. Vậy nên hóa ra là ít nhất là trong thời gian ngắn hạn, rằng một sự kiện rất là stress đầy căng thẳng có thể làm tăng lên lượng hóc môn đồng hóa (anabolic hormones). Và tôi nghĩ là người ta hay quên là ở trên một mức theo mặt cơ chế, rằng adrenaline là epinephrin và epinerphrin được hình thành (chiết ra, biochemically derived) theo mặt sinh hóa từ một phân tử gọi là dopamine. Nếu bạn nhìn vào con đường dẫn truyền và thậm chí chỉ cần Google nó lên và xem những hình ảnh bạn sẽ thấy rằng adrenaline được làm ra (sản xuất) ra từ dopamine. Và dopamine và những hóc môn đồng hóa này kiểu như chúng là những anh chị em họ chúng hợp tác làm việc cùng với nhau trong tuyến yên (pituitary) và vùng dưới đồi (hypothalamus). Vậy nên nó có lý là một người một ai đó có thể sử dụng đòn bẩy stress hướng đến sự phát triển và hướng đến sự đồng hóa (anabolism) so với cannibalism, không phải đang nói về cannibalism trong việc người ăn thịt người, nhưng những quá trình catabolic (dị hóa) là cách mà tôi đoán là là cách đúng đắn hơn để nói về nó. Nhưng cái mà một lần nữa khá là thú vị (tuyệt vời, đáng chú ý, remarkable) với tôi là tất cả những cấu trúc não mà kiểm soát dopamine, epinephrin, testosterone và estrogen, chúng luôn được nghĩ rằng là ở trong tiềm thức, có nghĩa rằng nằm tiềm tàng ở dưới khả năng của chúng ta để nhích một cái công tắc để bật hay tắt nó (AC: Vâng) và tuy nhiên hệ tư duy có vẻ như có ảnh hưởng đến chúng. Vậy nên tôi, tất cả cái đó là để nói là có một nền tảng cơ chế rõ ràng mà những điều này có thể có hiệu quả (hoạt động). Vậy nên, về một mặt tôi khá là ngạc nhiên, bởi vì đây là những kết quả khá là tuyệt vời, còn mặt khác tôi không quá ngạc nhiên bởi vì có một chất nền sinh lý ở đó mà có thể có sẵn sàng giải thích cho chúng (readily explain them).

AC: Yeah và tôi nghĩ là việc tìm hiểu ra chính xác cách thức làm sao mà nó hoạt động là thật là, bạn biết đó, hehe.

AH: Chúng ta nên thực hiện điều đó.

AC: Chúng ta nên làm điều đó.

AH: Chúng ta nên hợp tác với nhau.

AC: Làm thôi.

AH: Chúng ta có bạn chúng trong cả hai lĩnh vực (both departments) vậy nên chúng ta nên thực hiện làm điều đó.

AC: Nhưng mà tôi muốn đề cập là cách mà tôi nghĩ về hệ tư duy, và một lần nữa, tôi nghĩ chúng ta nên nghiên cứu điều này, tôi không phải là một nhà khoa học thần kinh nên tôi cũng chưa xem phần này nhưng đây là một thứ mà chúng ta có thể làm (thực hiện). Nhưng cách mà tôi nghĩ về hệ tư duy là rằng hệ tư duy là kiểu như một cánh cổng giữa những quá trình có ý thức và trong tiềm thức. Chúng hoạt động như là một chế độ mặc định của tâm trí, phải không nào? Vậy nên, nếu kiểu như được lập trình sẵn trong đó, bạn có stress bằng với sự tồi tệ, phải không nào? Điều đó sẽ là một thứ mà có lẽ là có ý thức, đúng không nào nhưng mà nó không nhất thiết phải là có ý thức, phải không nào? Bạn biết đó. Người ta thường không cần phải biết (bắt buộc phải biết) những hệ tư duy của họ về stress cho đến khi họ được hỏi thực sự là. Điều đó đã được lập trình vào từ lúc nuôi dưỡng chúng ta lớn lên (upbringing) qua những thông điệp sức khỏe công chúng và qua các phương tiện truyền thông và một số những thứ khác và nó kiểu như nằm ở đó như là một giả dụ (assumption) ở trong não và bộ não rồi đó đang tìm hiểu ra làm sao để nó phản hồi lại với tình huống này đây. Và nếu sự giả dụ, sự mặc định, sự lập trình là stress là tồi tệ, điều đó sẽ, thông qua sự kích hoạt tiềm thức của ta, tất cả những thứ mà như, ok, chà, tôi cần tăng lên (rev up) những thứ mà giúp bảo vệ tôi so với tăng lên những thứ mà giúp tôi phát triển. Và vậy nên điều đó là ít nhất cái cách mà tôi nghĩ về điều đó và điều tuyệt vời về việc đó là bởi vì nó hoạt động như kiểu một cánh cổng nó trao đổi (truyền thông) với nhiều những quá trình sinh lý tiềm thức nhưng ngoài ra nó còn có thể được tiếp cận truy cập vào từ ý thức của ta nữa phải không nào? Cho những thính giả của anh, họ được mời để mang (kéo, lôi) những hệ tư duy về stress của họ lên nền ý thức và nói là hệ tư duy về stress của bạn là gì. Tôi đang nghĩ về stress như thế nào và liệu tôi có thể tái lập trình nó không? Tôi có thể bắt đầu nghĩ về nó như là có khả năng mang tính tăng cường hơn không? Điều đó có khả năng là đòi hỏi một số nỗ lực có ý thức nhưng khi mà bạn làm điều đó, nó có thể kiểu như hoạt đồng nền ngầm ở dưới có ảnh hưởng đến việc làm sao cơ thể bạn phản ứng lại và bạn không cần phải nói ok tôi stress, tôi nên nói với những hóc môn đồng hóa (anabolic hormones) (AH: Đúng rồi, đúng rồi) Nó không hoạt động theo cách đó (AH: Không) Nhưng những hệ tư duy này có thể giúp với lại quá trình tịnh tiến (translational process).

AH: Tôi rất thích ý tưởng là hệ tư duy là giao diện giữa ý thức và tiềm thức và tôi nghĩ có rất là nhiều thứ để tháo mở ở đó (unpack there). Nhưng rõ ràng nó là trường hợp, là những hệ tư duy, chúng giữ vai trò kiểu như những heuristics (những kỹ thuật, đường tắt, đường nhỏ dựa trên kinh nghiệm để giải quyết vấn đề) phải không nào? Chúng có thể giới hạn lại số lượng thứ để ta có thể tập trung vào. Bởi vì một thứ mà rất là căng thẳng là cố gắng tập trung vào tất cả mọi thứ vào tất cả mọi lúc tôi đã cố gắng điều hướng xung quanh môi trường sức khỏe công cộng về bất kỳ thứ gì. Thông tin về sức khỏe công cộng về bất cứ thứ gì là kiểu như hơi khá là choáng ngợp. Như cô đã đề cập cho stress, bạn thấy rất là nhiều stress sẽ vụn nát bạn và rằng bạn cũng có thể tìm thấy minh chứng là stress sẽ giúp bạn phát triển. Vậy nên, chúng tôi những người đang lắng nghe, nên suy nghĩ như thế nào về stress và đâu là cách (mang tính) dễ thích nghi nhất để nghĩ về stress? Và chúng ta có nên nói về stress của ta? Chúng ta có nên không nói về stress của chúng ta? Liệu có một danh sách ngắn của những cách mà ta có thể chống chọi (cope) với stress tốt hơn? (AC: Yeah) Và có lẽ tôi nên cẩn thận với từ cope (đương đầu). Có một cách nào mà chúng ta có thể đòn bẩy stress theo hướng có lợi đối với ta?

AC: Yeah, tuyệt vời, và đó là một sự khác biệt nhỏ rất là quan trọng (important nuance) trong ngôn ngữ của ta, cái mà người ta thường xuất phát từ một điểm xuất phát nhìn chung là làm sao để bạn quản lý (manage) stress? Làm sao để bạn chống chọi đương đầu với nó? Điều đó ám chỉ, hàm ý nghĩa, làm sao để bạn chiến đấu chống lại nó, phải không nào? (AH: Nghỉ mát, mát xa, lớp học yoga) chiến đấu lại nó hay là thoát ly ra khỏi nó, phải không nào (AH: Chính xác, chính xác) và yeah, thử thách thực sự là làm sao chúng ta đòn bẩy (dùng nó làm đòn bẩy để nâng ta lên)? Làm sao để ta tận dụng nó? Làm sao để ta làm chung với nó (hợp tác với nó)? Và yeah, tôi có rất nhiều suy nghĩ về việc này. Thứ đầu tiên và quan trọng nhất là để làm rõ định nghĩa của ta về stress, vậy nên tôi nghĩ người ta thường liên tưởng (liên hệ), là hệ tư duy stress tiêu cực là từ từ gây ra tổn hại (insidious) là rằng bây giờ người ta định nghĩa stress với những hậu quả tiêu cực của nó. Vậy nên bước đầu tiên là để tách đôi nó ra và để nhận ra là stress là một thứ mang tính trung tính, phải không nào? Một hiệu ứng (cảm giác) chưa được phân định rõ ràng của việc trải qua hay là mong chờ dự đoán nghịch cảnh trong những nỗ lực hướng đến mục tiêu của bạn. Vậy nên hãy để tôi cởi mở điều đó nhiều hơn một chút, là bạn có thể đang ở trong trạng thái đó hay bạn chỉ có thể lo lắng về một thứ đang diễn ra. Đó là một khía cạnh. Cái thứ hai là, nghịch cảnh hay là lo lắng, hay một thứ gì đó mà đang làm việc chống lại bạn. Nhưng điều thứ ba là quan trọng, và điều đó là trong những nỗ lực liên quan đến mục tiêu của bạn. Điều đó có nghĩa là chúng ta chỉ stress về những thứ chúng ta có sự quan tâm về, những thứ mà có liên quan đến chúng ta, vậy nên điều này khá là quan trọng, phải không nào? Bởi vì stress được cho là có liên quan đến, đó là mặt kia của đồng tiền về những thứ mà chúng ta quan tâm về, phải không nào? Vậy nên tôi nghĩ đó là thứ đầu tiên để nhận ra phải không nào. Rằng là những con người, chúng ta stress bởi vì chúng ta quan tâm và chúng ta không stress về những thứ chúng ta không có quan tâm về. Vậy nên một ví dụ đơn giản hóa mà tôi thích sử dụng là, bạn biết đó, nếu Johnny đang rớt ở trường điều đó sẽ không làm bạn bị stress ra, trừ phi Johnny là con trai của bạn, hay bạn là Johnny hay là bạn thực sự quan tâm đến việc giáo dục những Johnny trên toàn thế giới này, phải không nào? Nó chỉ trở nên stress đến mức mà bạn quan tâm về nó. Vậy nên tại sao chúng ta lại đang cố chiến đấu hay là bỏ chạy đi hay trốn hay là chỉ là chống chọi lại (merely cope) với stress của ta hay vượt qua nó bằng cách mát xa, khi mà stress được kết nối với những thứ mà chúng ta có quan tâm về, vậy nên câu hỏi trở thành, ok, nếu đó là đúng nếu điều đó là sự thật, làm sao để tôi tận dụng tốt hơn hay là đòn bẩy nó tốt hơn hay là phản ứng lại với những stress không thể tránh khỏi (inevitable stresses) mà chúng ta sắp sẽ trải nghiệm qua? Tôi không đang nói là hãy đi ra và tìm kiếm nhiều stress hơn. Cái mà tôi đang nói là bạn sẽ trải qua stress nếu bạn có bất kỳ mối quan tâm hay giá trị hay niềm đam mê nào và đa phần tất cả chúng ta đều có. Và rồi lúc đó bạn làm điều gì đây? Và chúng tôi đã phát triển một cách tiếp cận gồm 3 bước để thâu nhập (adopt) một hệ tư duy stress tăng cường và ngắn gọn là, bước đầu tiên là ghi nhận là bạn đang stress, để sở hữu nó, thấy được nó là lưu tâm đến nó. Bước thứ hai là chào đón (chào mừng) nó, tại sao bạn lại chào mừng nó? Bạn chào mừng nó vì mang trong đó trong bản chất đó của stress đó là một thứ gì đó mà bạn quan tâm về (inherently something you care about) vậy nên bạn đang sử dụng nó như là một cơ hội để kết nối lại với cái gì đó mà tôi đang quan tâm ở đây đây nhỉ? Và rồi bước thứ ba là để tận dụng phản ứng stress để đạt được thứ mà bạn quan tâm về, không phải là sử dụng thời gian, tiền, nỗ lực, năng lượng để cố gắng loại bỏ stress đi. Điều đó nghe có lỹ không?

AH: Nó nghe có lý và tôi rất thích nó. Như là rất là nhiều phòng thí nghiệm đã nói, nhứng hiệu ứng sinh lý của stress, nhứng hiệu ứng mà gây ấn tượng cho tôi nhiều nhất và ví dụ như, sự thâu hẹp lại của sự chú ý thị giác cái mà rồi đó dẫn đến một khả năng phân tích thời gian chi li hơn (parse time more finely) cái mà dẫn đến khả năng để xử lý thông tin nhanh nhạy hơn, nó gần như giống như một siêu năng lực vậy (AC: Đúng vậy) và đúng rồi, nó có thể cảm thấy không thoải mái thường thường nhưng tôi thích ý tưởng là, ghi nhận là nó, ôm trọn nó và rồi hiểu được sức mạnh của nó và nâng đòn bẩy sức mạnh đó, tôi nghĩ cái mà tôi thích rất nhiều về khung sườn đó là phản ứng stress là rất là chung chung (mang tính chung chung, generic) không giống như phản ứng sự thư giãn, chúng ta thường không cần phải tập luyện huấn luyện phản ứng stress. Chúng ta tất cả đều có được điều này như là một điều trời ban (hàng ban tặng miễn phí) và rồi nghe nó giống như nó là một câu hỏi về cái gì mà ta cuối cùng sẽ làm với nó với điều đó.

AC: Và đúng vậy đó, Hans Selye, cha đẻ của stress chính bản thân ông ấy đã nói, nó là một phản ứng không cụ thể (non-specific response) phải không nào. Vậy nên nó xuất hiện, đó là về việc bạn làm cái gì với nó. Đó là cách nào bạn đang luồng lách điều hướng nó. Và yeah, như chúng ta đã nói về từ trước, cái mà đa số nhiều người làm là họ căng thẳng về stress, cái mà rồi sau đó còn làm nó trầm trọng hơn, hay là họ thoát ly ra khỏi stress, cái mà dẫn đến sự trầm cảm và anhedonia (mất sự thích thú trong cuộc sống). Bởi vì bằng việc thoát ly ra khỏi stress, bạn cũng đồng thời thoát ly ra khỏi những thứ mà bạn quan tâm về. (AH: Và lạm dụng chất) Đúng vậy.

AH: Đồng nghiệp của chúng ta Anna Lembke, người mà chúng tôi đã có may mắn mời làm khách mời trên chương trình podcast của chúng tôi, nói rất nhiều về việc này. Bạn biết đó, ý tôi là rất nhiều trong số những sự lạm dụng chất này, bởi vì cô ấy chạy một phòng khám chuyên cho sự nghiện bên bộ phận y của trường học. Nó lấy quyền kiểm soát cuộc sống của người khác bởi vì cái sự ổn định tăng cường (increased stability) để tìm một giải pháp cho stress mà cuối cùng trở thành tác nhân gây stress bản thân nó và vấn đề riêng của nó. Chà, tôi thích hệ tư duy đó và khung sườn đó. Tôi rất muốn cô nói cho chúng tôi chỉ một chút xíu về việc cô đang thực hiện dự định gì hiện giờ và điều gì đang gây hứng thú cực kỳ với cô hiện nay. Nếu cô có thể và sẵn lòng nói về một số dự án mà đang thực hiện đang trong quá trình xây dựng tôi thấy một sự đề cập ngắn gọn về một thứ gì đó trên trang web các bài đăng tải của cô (publications website) về một bài nghiên cứu về những người gây ảnh hưởng, những ảnh hưởng trên mạng và dinh dưỡng. Và giờ, điều đó có thể không phải là sự động lực chính của cái mà bạn đang hướng đến về (đang dự định) nhưng nếu bạn có thể chia sẻ với chúng tôi về điều đó, nó có vẻ kiểu như thú vị suy xét rằng rất nhiều sự trao đổi trong và xung quanh chương trình podcast này diễn ra trên mạng xã hội và tôi kiểu như đã dấn thân (phóng vào) trong quan cảnh (landscape) này nơi mà tôi liên tục bị dội bom với những thông tin về sức khỏe và những người tạo ảnh hưởng, phải không nào? Ở thời điểm đó, tôi thậm chí còn không biết đến khi một vài (AC: Anh là một người gây ảnh hưởng) Một người có thể tranh luận là theo đường này hay đường khác, vậy thì nhưng mà cái vụ với lại những người gây tạo ảnh hưởng là gì vậy? Họ có đang làm điều gì tốt cho những thông tin sức khỏe hay là họ đang tàn phá quan cảnh? Và đừng cố gắng và bảo vệ cảm xúc của tôi (don't try and protect my feelings). Bởi vì tôi biết rằng bây giờ là stress thực sự là một tài sản quý báu.

AC: Yeah, chà, bạn biết đó, phần nghiên cứu đó thuộc một bộ phận tổng thể nghiên cứu lớn mà chúng tôi đang dấn thân bước chân nghiên cứu vào, cái mà để hiểu từ đâu mà những hệ tư duy này bắt nguồn từ (bắt đầu xuất phát), phải không nào? Và tôi đã đề cập kiểu như những thực thể sức khỏe cộng đồng (công cộng, công chúng, public) như là một nguồn của, ví dụ như những hệ tư duy của chúng ta về stress, nhưng tôi nghĩ là những hệ tư duy của ta chịu ảnh hưởng của 4 nguồn khác nhau. Đầu tiên là sự nuôi dưỡng lớn lên của ta, cách mà cha mẹ chúng ta nói về, những thứ như khi ta stress hay là thức ăn hay là những thứ khác. Nguồn thứ hai là văn hóa và truyền thông (media) và bạn biết đó những bộ phim, chương trình podcast và giờ là social media (mạng xã hội). Cái thứ ba là những người có ảnh hưởng. Nên những gì mà những người bác sĩ nói với ta hay những người bạn thân hay là đồng nghiệp. Và thứ 4 là lựa chọn có ý thức của bạn. Vậy nên chúng ta nói về điều đó một chút xíu rồi. Chúng ta là những con người có khả năng để có thể lưu tâm về và có thể thay đổi hệ tư duy của ta. Nhưng bạn biết đó, mạng xã hội và những người ảnh hưởng các thứ, đã là một phần trong nỗ lực để cố gắng hiểu hệ tư duy của ta về những thứ như thực phẩm an lành (tốt cho sức khỏe) đến từ đâu. Và Brad Turnwald, người mà là một cựu sinh viên tốt nghiệp trong phòng thí nghiệm của tôi đã làm một chuỗi những nghiên cứu rất là thú vị về khía cạnh này (về mặt này), cho thấy rằng, nếu bạn đánh giá chất lượng dinh dưỡng của những bộ phim kinh tởm nhất trong vòng 20 năm trở lại đây hay là nếu bạn nhìn vào những tài khoản Instagram của tất cả những người có tầm ảnh hưởng nhất trên Instagram và bạn xem xét (phân tích) thành phần dinh dưỡng của cái mà họ đang ăn, cái mà anh ấy cho thấy rằng phụ thuộc vào bài nghiên cứu, 70 đến 90% của những bộ phim hay là người tạo ảnh hưởng đó sẽ thất bại (trượt) những tiêu chuẩn pháp lý cho việc quảng cáo ở Anh. Vậy nên họ đang đưa ra những thành phần chất dinh dưỡng của họ, bạn biết đó, có lẽ không quá đỗi ngạc nhiên, nhưng mà là không thể phủ nhận là không khỏe mạnh không lành mạnh. Và đối với tôi, điều đó là thú vị và quan trọng. Nó cho thấy rằng ở đâu mà chúng ta đang có hệ tư duy này rằng những thức ăn không tốt cho sức khỏe đó là gây thèm thuồng, ngon, kích thích vị giác (pleasurable, desirable). Điều mà còn có lẽ thậm chí thú vị hơn đó là một số những nghiên cứu mà anh ấy và những người khác trong phòng thí nghiệm của tôi đã thực hiện để cho thấy rằng những cách mà người ta đang nói đến về những loại thức ăn mà họ đang ăn thực sự cũng có quan trọng nữa. Vậy nên nhìn chung là cái mà chúng tôi tìm hiểu ra là khi mà người ta nói về những thức ăn không lành mạnh (thức ăn có hại cho sức khỏe), họ dùng những ngôn ngữ mà bao hàm một cảm giác của sự phấn khích (hào hứng, excitement), niềm vui (fun), sự gợi cảm (sexiness), mối nguy hiểm, sự gây thèm thuồng tận hưởng (indulgence), căn bản là bất cứ thứ gì mà tốt với lại gây khoải cảm ham muốn (desirable), phải không nào?

AH: Chúng có thể là những cái bánh quy, bánh ngọt (bánh gato), nhiều đường.

AC: À xin lỗi đúng rồi, chính xác, như là những loại thức ăn thực phẩm thực sự không lành mạnh. Đó thực sự là mục tiêu đó, cái gì ta, giúp tôi nó khá là thách thức (*nghe không rõ*) nhưng mà yeah, đúng rồi, nhiều chất béo và nhiều đường.

AH: Tôi nghĩ có sự đồng thuận khá là tốt hiện nay, là nhiều đường quá là thực sự không tốt.

AC: Và đường được tinh chế quá nhiều (highly processed).

AH: Được tinh chế quá nhiều, quá nhiều đường. Tôi nghĩ là có một sự đồng thuận chung. Tôi nghĩ một người nào đó sẽ kiểu như, nếu bạn đang cố gắng đuổi theo ai hãy đuổi theo tôi, tôi sẽ đứng vững đằng sau nói vững nói về những điều này.

AC: Nhưng về mặt khác khi mà người ta nói về, nếu mà họ có, cái mà bạn biết đó, những thức ăn khỏe mạnh không được dựng hình tượng lên trong các phương tiện truyền thông, chúng không được tô vẽ nên bởi những người tạo ảnh hưởng hiếm khi là bao giờ. Và khi họ đang có thì, họ thường nói về nó với một ngôn ngữ mà gây ra tạo ra một cảm giác của sự thiếu (không đủ, như thiếu một cái gì đó, deprivation). Bạn biết đó, nó giàu chất dinh dưỡng nhưng mà kiểu như nó chán ngấy, nhạt nhẽo buồn tẻ, nó không ngon (AH: Phục hồi sau những ngày lễ. Nó kiểu như chế độ reset lại sau ngày lễ phải không nào?) Yeah. Chính xác. Và điều này thật sự rất là quan trọng bạn biết đó bạn đang làm (thực hiện) tất cả những công việc này cố gắng và những người khác đang thực hiện làm tất cả những công việc này cố gắng thông tin cho mọi người về cái gì thực sự là tốt cho họ. Và trong khi đó, có một cơn bão, cơn lốc xoáy của một lực lượng khác bạn biết đó mà nói cho người ta rằng mà thấm vào não ta rằng chắc chắn rồi, những cái đó có lẽ là sẽ tốt cho bạn nhưng những loại thức ăn đó không có vui nhộn (để ăn, fun) hay quyến rũ hay là gây thèm thuồng (indulgent) hay gây ham thèm (desirable) trong bất cứ cách, hình dáng hay hình thức nào, phải không nào? Và ngoài ra nó còn là quảng cáo trả tiền cho những loại thức ăn nhanh và những loại thức uống có đường và những thứ khác. Vậy nên nó không có gì ngạc nhiên là chúng ta có hệ tư duy này rằng thức ăn lành mạnh (khỏe mạnh) là một thứ ít gây thèm muốn hơn (less desirable) để ăn bởi vì những nguồn lực văn hóa và xã hội kia. Cái mà những nghiên cứu của chúng tôi là chỉ cố gắng làm là bộc trần ra, định lượng nó (quantify) it như là một cách để nói, ok, hãy lưu tâm hơn một xíu về cách làm sao chúng ta nói về những thức ăn lành mạnh (healthy foods). Bạn biết đó, nếu bạn là một nhà sản xuất phim, bạn có thể nào lưu tâm hơn một xíu để cho thấy những thức ăn lành mạnh và ngon miệng và để những nhân vật nói về chúng trong theo những cách mà lôi cuốn cuốn hút nhiều hơn? Có rất là nhiều khoảng trống khoảng không cho người mà tạo ra sáng tạo ra nội dung này để có một sự ảnh hưởng không chỉ là lên việc con người làm điều gì, mà cả là về họ nghĩ về gì những loại thức ăn thực phẩm họ đang ăn.

AH: Nó thật là thú vị, tôi chưa nghĩ về khía cạnh đó cho tới bây giờ nhưng mà nó có vẻ hợp lý là bất kỳ loại thức ăn nào mà hình thức loại đóng gói bên ngoài có thể được bán kiểu như là, có thể được thêu dệt (weave, woven) vào một bộ phim hay là giới thiệu (promoted) bởi một người nổi tiếng có tầm ảnh hưởng (celebrity influencer), không phải là một người có ảnh hưởng về mặt sức khỏe (health influencer) chính bản thân nó, nhưng mà những người nổi tiếng có ảnh hưởng bởi vì họ sẽ được trả tiền, phải không nào? Nó là một phần của hệ sinh thái mà cho phép họ có một nguồn thu nhập và nó đưa trở lại việc buôn bán (những đơn bán hàng) cho công ty. Trong khi đó những thứ mà không thể được làm trở thành hàng hóa (sản phẩm này giống giống na ná sản phẩm kia, không có mấy gì khác biệt, commodity, commoditized) thì nó sẽ khó khăn hơn, phải không nào. Nó khó để cho bất kỳ ai mà sản xuất cam và bán cam sẽ không có khả năng cao là giới thiệu cam trong một bài viết (bài đăng) của người nổi tiếng (celebrity post) hay trong một bộ phim bởi vì cam có thể được mua từ rất nhiều, rất nhiều nguồn rằng không có một nguồn có thể phân định (định danh) ra được để mua cam mà nó có như là với những thực phẩm được đóng gói, ví dụ vậy.

AC: Yeah, nhưng mà thứ điều thú vị mà chúng tôi tìm ra được từ những nghiên cứu đó là nó không được đưa lên thúc đẩy bởi những nội dung được giới thiệu (promoted content) hay nội dung mang tên thương hiệu (branded content). Có một vài trong những thứ đó chắc chắn rồi và yeah, tất cả những nội dung được quảng bá và mang tên thương hiệu là thường thường là cho những loại thức ăn được chế biến chứa nhiều đường. Nhưng 90% hay hơn những loại thức ăn đó mà họ đang cho xem (ND: trong những nghiên cứu) là không phải được quảng bá hay là mang tên thương hiệu. Và vậy nên, có rất là nhiều sự linh hoạt trong việc những nhà sản xuất và những người gây ảnh hưởng này có thể chiếu trên những phương tiện truyền thông của họ. Mặc dù nó đi cả đôi đường, phải không nào? Nó không chỉ là trách nhiệm của những nhà sản xuất và những người tạo ảnh hưởng, công chúng đang phản ứng lại với việc này. Và chúng tôi cho thấy rằng người ta phản ứng tích cực hơn, có nhiều like (lượt thích) hơn trên những bài viết (bài đăng) về những thực phẩm thức ăn không lành mạnh, nên nó kiểu như không được ngon miệng hợp khẩu vị lắm (khó chịu, không vừa ý, distasteful) và (*in neck it*) *không nghe được*, bạn biết đó, nó là một văn hóa hơi khó chịu không vừa ý lắm xung quanh việc ăn uống lành mạnh và chúng ta thực sự có rất nhiều việc cần làm để thay đổi nó.

AH: Yeah, nó là hệ dây thần kinh dopamine qua lại và qua lại chỉ là sự nhìn thấy những loại thức ăn đầy calo, cực kỳ ngon miệng có thể thúc đẩy những dây thần kinh dopamine kia. Và tôi nhận ra là có những người ngoài kia mà có được kiểu dạng giống như hay là những mức tương tự của sự thỏa thích từ những loại thức ăn lành mạnh (healthy foods). Và đó là một điều tuyệt vời nếu mà ai đó có thể đạt được điều đó. Chúng ta cần nhiều hơn những kiểu như vậy, là cái mà nghe có vẻ như là.

AC: Yeah! Chính xác đó và đó là cái mà rất là truyền cảm hứng đối với tôi, ít nhất là, nó khả thi, phải không nào? Ý tôi là, người ta nghĩ, ồ, rau củ quả thì bản thân nó là ít ngon miệng hơn kem và nó giống như, chà điều đó, không thực sự là đúng, ngoài ra nó không phải bắt buộc là một cuộc thi, phải không nào? Tôi không phải lôi khéo đứa nhỏ 3 tuổi nhà tôi ghét kem để cho con bé thích cải bông xoăn (broccoli) có rất là nhiều thứ hơn tôi có thể làm để giúp định hình một hệ tư duy hướng tiếp cận tích cực hơn và thèm thuồng hưởng thụ xung quanh những loại rau củ lành mạnh, đầy chất dinh dưỡng và trái cây và những loại thức ăn khác, phải không nào? Trong thêm vào cả việc con bé thích ăn kem, phải không nào? Và điều đó là hoàn toàn ổn.

AH: Nghe có vẻ như nó là một nghiên cứu rất là thú vị. Khi nó được công bố, xuất bản, xin hãy cho tôi biết và tất cả thứ liên quan.  

AC: Yeah, tôi nghĩ là nó thực ra đã được công bố ra trong tuần này, yeah.

AH: Ồ, tuyệt vời. Tôi chắc chắn sẽ.

AC: Ở trong JAMA Internal Medicine.

AH: JAMA Internal, ok, một journal tuyệt vời. Tôi nhất định sẽ nói về nó trên mạng xã hội và những nơi khác, nghe rất là thú vị. Bạn còn đang có dự định gì gần đây? Câu hỏi yêu thích nhất của tôi để hỏi bất kỳ nhà khoa học hay là đồng nghiệp nào là, nhân tiện đây, là bạn hào hứng nhất về điều gì gần đây? Bạn đang thức khuya nghĩ về điều gì và dậy sớm nghĩ về điều gì?

AC: Vậy nên chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, thứ mà tôi hào hứng nhất về, chà, tôi đoán là có rất là nhiều thứ. Thứ mà tôi đang có hứng thú nhất hiện nay bây giờ, chúng tôi đang bỏ công sức nhiều nhất vào (làm việc cật lực vào), bạn biết đó, tôi bắt đầu bằng việc trở nên có cảm hứng từ những hiệu ứng giả dược trong y dược, tôi dành một thời gian dài nghiên cứu những (I did a long stint in placebo or belief like effects) hiệu ứng giống giả dược hay là giống niềm tin trong sức khỏe hành vi. Và rồi giờ đây chúng ta đang di chuyển trở lại về y dược vậy nên tôi rất là có hứng thú trong việc nhìn vào làm sao chúng ta có thể làm việc với những loại thuốc đang có (active drugs) và những cách điều trị để làm cho chúng tốt hơn, tốt lên và làm cho trải nghiệm của những phương pháp điều trị đó tốt hơn bằng cách chăm thêm (thấm nhuần, chắt đọng, nhỏ giọt vào, instilling) những hệ tư duy khác nhau. Vậy nên, một nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện dựa theo những đường dây (đường dẫn) đó theo những mạch đó, chúng tôi làm việc với những đứa trẻ hay đang trải qua những đợt điều trị cho dị ứng thực phẩm. Vậy nên dị ứng đậu phộng, ví dụ vậy, đây là cái mà Kari Nadeau, người mà dẫn đầu Trung Tâm Nghiên Cứu Dị Ứng Stanford ở đây. Cô ấy có một phương pháp điều trị tuyệt vời cho những dị ứng thức ăn. Căn bản là những đứa trẻ dùng những liều tăng dần của thứ mà chúng dị ứng giống như là đậu phộng. Và trải qua một quá trình khoảng 6-7 tháng, những đứa trẻ này trở nên ít phản ứng hơn với đậu phộng. Và vấn đề với phương thức điều trị đó là nó rất là khó bởi vì chúng (những đứa nhỏ) có đủ kiểu thể loại những triệu chứng tiêu cực và tác dụng phụ. Chúng nó bị ngứa miệng và một cái bụng cồn cào khó chịu (upset stomach) chúng nôn mửa ra và nó thật đáng sợ bởi vì chúng đang theo đúng nghĩa ăn cái thứ mà chúng được nói là có thể giết chúng, phải không nào? Và cái điều mà chúng tôi làm ở trong nghiên cứu này là chúng tôi cố gắng làm cải thiện tăng lên trải nghiệm và kết quả của việc đó, bằng cách định hình lại những hệ tư duy về những triệu chứng và tác dụng phụ. Vậy nên như là nó đã được thực hiện trước đó, những đứa trẻ được nói, hãy nhìn nè, những tác dụng phụ này là một sản phẩm phụ không may của phương thức điều trị này và các con phải kiểu như cố gắng chịu đựng qua chúng (endure them) để vượt qua chúng. Nhưng điều mà chúng tôi tìm ra khám phá ra với cuộc trò chuyện (đối thoại) của tôi với Kari là rằng thực tế của những tác dụng phụ đó không quá là tiêu cực. Trong thực tế, chúng được liên kết theo một cách về mặt mang tính cơ chế đến việc cơ thể học hỏi làm sao để chịu đựng được đậu phộng hay là tác nhân gây dị ứng. Nên cái mà chúng tôi làm là chúng tôi làm việc trong một cuộc thử nghiệm. Cả bọn chúng đều nhận được liệu pháp điều trị này nhưng một nửa trong số chúng được giúp đỡ (hỗ trợ) để thấy được hệ tư duy tích cực hơn này, rằng những triệu chứng và tác dụng phụ của phương pháp điều trị này là một dấu hiệu tích cực là phương pháp điều trị là đang có hiệu quả và rằng cơ thể của chúng đang trở nên mạnh mẽ hơn và cái mà chúng ta tìm ra được là hệ tư duy đó dẫn đến sự giảm hẳn đi những sự âu lo lo lắng, ít các triệu chứng khi ở những liều dùng (đậu phộng) cao nhất và thú vị nhất trong tất cả chúng có những kết quả tốt hơn. Vậy nên dựa trên những dấu hiệu đánh dấu miễn dịch mà là một dấu hiệu của sự chịu đựng cơn dị ứng này, những đứa trẻ mà có hệ tư duy này xuyên suốt (quá trình điều trị) có những kết quả đầu ra tốt hơn cho đợt điều trị. Vậy nên đó chỉ là một ví dụ mà tôi nghĩ mục đích của tôi là thực sự đưa đẩy chúng ta vượt qua khỏi hệ tư duy giả dược so với thuốc so với hành vi, để đi đến một nơi mà chúng ta có thể hòa trộn (phối trộn) chúng lại với nhau và tối đa hóa lợi ích của những phương thức phương cách điều trị này. Vậy nên chúng tôi đang làm rất nhiều cuộc nghiên cứu như vậy, bạn biết đó, làm sao chúng ta có thể cải thiện liệu pháp điều trị cho ung thư với những hệ tư duy khác nhau. Chúng tôi cũng thực hiện một số nghiên cứu gần đây với vacxin Covid-19 và triệu chứng và những tác dụng phụ. Vậy nên đó là cái mà tôi đang rất là đam mê về hiện nay.

AH: Thật là tuyệt vời, tôi không thể chờ đợi để đọc bài nghiên cứu đó. Cuộc nghiên cứu đó đã xuất bản hay là đang trên đường? (AC: Yeah, nó đã xuất bản rồi) Ok, vậy thì tôi sẽ ngoài ra đọc và trao đổi với bạn và về việc đó và ai biết đâu được, có lẽ bạn có thể lên Instagram và làm một cái Instagram live nho nhỏ để đảm bảo rằng tôi không làm hỏng làm rối lên sự truyền đạt và chúng ta có thể nghe nó trực tiếp từ người mà chạy thực hiện cuộc nghiên cứu này. Tôi thấy vấn đề của những tác dụng phụ này rất là thú vị, tôi không dùng quá nhiều những loại thuốc kê toa nhưng gần đây tôi được kê toa một vài loại và danh sách của những tác dụng phụ là bạn biết đó, thật sự quá khủng và nó chỉ kéo dài và dài và dài lê thê. Và tôi nhận ra là một số trong số đó là những bảo vệ về mặt pháp lý, điều đó khiến cho tôi thật khó tin là họ đang thực sự kỳ vọng một ai đó đọc những cái danh sách đó bởi vì bạn cần một kính hiển vị có nạp năng lượng cao để đọc nó một bản in cực ky nhỏ (truly fine print). Nhưng tôi thực sự có nhận ra rằng qua việc đọc qua những tác dụng phụ một sự chuẩn bị cho bản thân trải nghiệm qua những tác dụng phụ đó. Và nên vậy đó giờ đây tôi chỉ xé rách phá hủy (xé hủy, rip up) cái thứ về tác dụng phụ này hay là giấy đó, tôi chỉ quăng dục nó ra, tôi chỉ dùng loại thuốc đó như là liều khuyến nghị (recommended). Bạn có nghĩ là nó có tác dụng theo hướng kia hướng ngược lại nữa không? Đến một nơi mà nếu một liều thuốc có hiệu quả (effective medication) được cho là có kết quả A, B, hay C và bạn được nói lần nữa và lần nữa nó hiệu quả làm sao cho phương thức cách điều trị đó rằng nó có thể làm tăng cường hiệu quả đó (amplify the effect). Vậy nên nói theo một cách khác, nó theo đúng cách nghiêm khắc là một giả dược (strictly a placebo), nó không phải là nocebo (Hiệu ứng nocebo là phản ứng tiêu cực mà bệnh nhân trải qua khi nhận được nocebo), như mà cô đã miêu tả từ trước. Nhưng rằng có lẽ là ở một liều thấp hơn, một loại thuốc được kê có thể có một hiệu ứng nhân rộng (tăng cường lên, amplified effect) hay là ở một liều vừa thích hợp, nếu bạn muốn nói như thế, nó có thể có một hiệu ứng sinh lý cực kỳ mạnh. Ý tưởng đó có bao giờ được thực hiện thí nghiệm qua chưa?

AC: Ở một mức độ nào đó, tôi nghĩ là cái chỗ mà nó hơi xoắn (hơi khó khăn, khó nhọc) là, trong một thời gian dài, người ta nghĩ những hiệu ứng của giả dược là dựa trên sự kỳ vọng. Vậy nên bạn kỳ vọng có một lợi ích và lợi ích đó xuất hiện. Có chắc chắn là có một sự thật trong việc đó nhưng tôi nghĩ là cách tiếp cận hệ tư duy là uy lực có mạnh mẽ hơn bởi vì nó giúp chúng ta hiểu được những cơ chế, phải không nào? Vậy nên nếu bạn chỉ kỳ vọng là huyết áp của bạn sẽ hạ xuống, những cơ chế nào mà qua đó sự kỳ vọng đó sẽ dẫn đến huyết áp của bạn đi xuống? Nó khó để thậm chí hiểu được điều đó, phải không nào? Nhưng nếu bạn có một hệ tư duy là, bạn đang ở trong sự chăm sóc tốt (in good hands) rằng việc này đang được lo liệu thay cho bạn rằng căn bệnh này sẽ không giết chết bạn, phải không nào? Rằng bạn đang được điều trị rất là tốt, và rồi bạn có thể bắt đầu cởi mở ra những cơ chế mà thông qua đó huyết áp có thể được điều hòa ổn định. Có thể đó là sự giảm đi sự lo âu, có lẽ là nó là sự thay đổi kiểu như sự trông đợi của cái mà là những sự ưu tiên (prioritization) của những gì mà cơ thể cần tập trung vào. Và rồi, tôi thực sự nghĩ rằng, công việc của chúng ta trong tương lai cần trở nên tìm hiểu sâu kỹ (sophisticated) về cái hệ tư duy gì mà chúng ta đang thấm nhuần (instiling) khi mà chúng ta nói một thứ gì đó sẽ hoạt động sẽ hiệu quả hay không hiệu quả. Và làm sao để chúng ta hiểu được những cơ chế mà qua đó thay đổi mặt sinh lý của ta. Vậy nên để trả lời câu hỏi của anh, tôi nghĩ là ý tưởng đó (cái việc đó) có thể là đúng sự thật nhưng mà nó còn phụ thuộc vào cái gì mà thực sự là hệ tư duy mà bạn đang tạo ra (evoking).

AH: Tôi biết rằng cô là một bậc phụ huynh và đến những người phụ huynh ngoài kia, nhưng mà ngoài ra còn cả những đứa con nít và những người không có con nít, đâu là cách tốt nhất để học và chỉ dạy về hệ tư duy, ý tôi là, rõ ràng là cuộc hội thoại như vậy thông tin cho tôi và rất là nhiều người ngoài kia về hệ tư duy và làm sao chúng ta có thể thâu nhập chúng. Nhưng nó cũng trông có vẻ đối với tôi là nếu chúng ta có một cơ hội để dạy hệ tư duy và thực sự gieo trồng (cultivate) những hệ tư duy cụ thể rằng thế giới sẽ là một nơi thật sự tuyệt vời hơn. (AC: Đúng rồi, yes) Làm sao để một ai đó đi quanh và giải quyết được vấn đề đó? Suy xét là họ đã từng là trẻ con và chúng ta đang luôn bị dội bom (bombarded) với những thông tin trái ngược (conflicting information) trong mọi lúc. Làm sao để chúng ta thả neo móc neo vào một hệ tư duy?

AC: Yeah, và anh đang đi vào chủ đề của một niềm đam mê chính khác của tôi hiện giờ, cái mà là cái chúng tôi đang gọi trong phòng thí nghiệm của chúng tôi, meta mindset. Tôi đang làm việc về chủ đề này với Chris Evans và những bạn đồng nghiệp khác. Và đó là, làm sao để cho chúng ta theo một cách có ý thức (consciously) và có chủ đích (deliberately) thay đổi hệ tư duy của ta? Và bước đầu tiên là rất là đơn giản và đó là chỉ là nhận thức được là bạn đang có những hệ tư duy đó. Rằng thế giới, những niềm tin của bạn, không phải một sự phản chiếu tuyệt đối (unmitigated reflection) của thực tế như là theo cách khách quan của nó là. Chúng được thanh lọc qua sự cảm nhận (interpretations) của ta, những kỳ vọng của ta, những khung sườn và sự đơn giản hóa của thực tế đó. Và như là anh biết đó, công trình nghiên cứu của anh và rồi như là cái mà anh đã biết rất là rõ đó đa phần những gì diễn ra trong não của ta là một sự diễn giải phân tích của thực tế (interpretation of reality). Hệ tư duy là chỉ là những giả dụ cốt lõi được đơn giản hóa về những thứ gì đó. Và bước đầu tiên là nhận ra là chúng ta có chúng (những hệ tư duy đó). Bước thứ hai là bắt đầu để nghĩ về những hiệu ứng của những hệ tư duy đó là gì trong cuộc sống của ta để kiểu như diễn giải ra câu chuyện đó (play out the story) phải không nào. Ok, tôi có hệ tư duy này là stress là gây hại. Điều đó đang làm cho tôi cảm giác, cảm thấy như thế nào? Điều đó đang dẫn dắt tôi làm việc gì? Liệu rằng hệ tư duy này là giúp ích hay phá hoại (helpful or harmful)? Câu hỏi không phải là liệu hệ tư duy này là đúng hay sai? Bởi vì bạn có thể tìm bằng chứng ủng hộ và cả chống lại nó. Chúng ta có thể chống cự lại nó cho đến khi chúng ta kiệt sức, câu hỏi là, nó giúp ích hay là có hại? Và rồi, bạn có thể đi xung quanh tìm kiếm những cách để thâu nhập (adopt) những hệ tư duy hữu dụng hơn. Vậy nên, chúng tôi đã nghiên cứu khá nhiều cho việc thực sự làm sao để làm việc đó, làm sao để theo một cách có ý thức thay đổi nó (hệ tư duy)? Đôi khi nó rất là đơn giản. Tôi nghĩ trong những trường hợp mà chúng ta không có quá nhiều kinh nghiệm từ trước (prior experience) như là những đứa nhỏ với dị ứng mà đang được qua phương pháp điều trị đó, chúng không có bất kỳ hệ tư duy nào khác về những triệu chứng vậy nên chúng tôi có diễm phúc (sự xa xỉ, luxury) để mà dựng thí nghiệm đó lên, phải không nào? Khi nói về những thức ăn lành mạnh (khỏe mạnh), tôi nghĩ nó khó hơn để thay đổi hệ tư duy của người khác bởi vì chúng ta có rất nhiều trĩu nặng đè nặng chúng ta xuống. Là một người phụ huynh, đối với tôi, tôi đoán là lời khuyên số 1 của tôi là hãy nhẹ hóa, và cố gắng để con bạn làm một số thứ cụ thể và tập trung nhiều hơn cho việc giúp đỡ chúng thâu nhập những hệ tư duy mang tính thích nghi hơn. Vậy nên, tôi không phải là ở bất cứ cách (phương thức) nào là một chuyên gia về lĩnh vực này nhưng mà tôi đang thử nghiệm điều đó với đứa con của chính tôi. (AH: Thử nghiệm thực tế, real time real time, loại thí nghiệm thực sự nhất, the real kind of experiment). Đó là làm sao, làm sao để tôi chống lại cơn thúc giục để ép con của tôi ăn tối để mà con bé có thể ăn tráng miệng, phải không nào? Bởi vì, đó là cơn thúc giục thực sự (AH: Bạn cần một kỹ năng thương lượng) và về hệ tư duy, bạn nhận ra rằng điều đó chỉ là củng cố đối với con bé và là món tráng miệng là thứ gây háo hức, vui nhộn để có. Và cái thứ mà con phải làm ắt hẳn thật là tồi tệ. Quá là tồi tệ mà ba mẹ tôi phải ép tôi làm điều đó, phải không nào? Vậy nên nó là sự buông thả ra một chút xíu của hành vi, thực tế khách quan, và thực sự nghĩ về thực tế chủ quan và tập trung vào những hệ tư duy mang tính thích nghi. Vậy nên mục tiêu của tôi là một người phụ huynh là cố gắng để giúp con bé cô đọng chắt đọng (instill) một hệ tư duy lành mạnh (khỏe mạnh) về việc ăn uống, rằng những thức ăn khỏe mạnh là gây thèm thuồng và ngon miệng, rằng trải nghiệm của stress là không thể tránh khỏi được rằng là nó là thật là tự nhiên và rằng nó có thể giúp trải qua một trải nghiệm căng thẳng stressful có thể giúp nó học hỏi, phát triển và trở thành một người cá nhân có sự kết nối và vui vẻ hơn. Và với việc tập thể dục và những hoạt động thể chất chúng tôi chưa bàn đến chủ đề đó nhưng mà (hihi) chúng tôi sẽ với thời gian.

AH: Yeah, điều đó thật tuyệt vời. Tôi đã viết ghi chú nó xuống và tôi sẽ giữ nó ở phần trước phía trước trong đầu (não) của tôi khi đi tiếp, để tiếp tục hỏi, hiệu ứng của hệ tư duy của tôi về X là gì. Và chỉ là để đánh giá điều đó. Về việc tập thể dục, về thức ăn, về trường học, về stress, về các mối quan hệ, về mối quan hệ với bản thân, vv. Và tôi thật sự nghĩ về nó theo một dãy chuỗi những lớp, vậy nên cô có nghĩ là đó sẽ là một bài tập có hữu ích (hữu dụng)?    

AC: Chắc chắn rồi, và anh biết đó, và công trình nghiên cứu của anh cũng nói lên điều này, sự lưu tâm (những người lưu tâm, the mindful). Tôi sẽ cũng thúc giục việc chống lại việc người ta trở nên độc đoán (dogmatic) về những hệ tư duy của họ, phải không nào? Kiểu như là ồ tôi cần phải có một hệ tư duy đúng phải không nào. Hoặc là nếu mà tôi không có hệ tư duy đúng, bạn biết đó, nó như là hệ tư duy là một mảnh ghép của bức tranh ghép tổng thể. Nó là một mảnh ghép của bức tranh tổng thể mà rất là tạo được sức mạnh bởi vì chúng ta có quyền truy cập (access) đến nó và chúng ta có thể thay đổi nó. Nhưng đúng là nó chỉ là một mảnh ghép của cả bức tranh tổng thể. Vậy nên hãy đối xử với bản thân như là một nhà khoa học, nhìn vào cuộc sống của bạn, nhìn vào hệ tư duy của bạn, hãy nhìn xem những thứ gì đang phục vụ cho bạn, hãy nhìn xem cái gì đang không. Hãy tìm những hệ tư duy hữu dụng, mang tính thích nghi và mang tính trao sức mạnh nhiều hơn và hãy sống chung cùng với chúng.

AH: Tôi rất thích điều đó. Và giờ, trong một phiên bản của cuộc thảo luận này, có lẽ tôi sẽ hỏi rằng, tôi sẽ hỏi một câu hỏi tiếp theo mà tôi có thể đã hỏi ở lúc đầu. Nhưng mà tôi sẽ hỏi nó, bây giờ là gần kết thúc chương trình, đó là, bạn là một tập hợp (tổng hợp những vì sao ngôi sao, constellation) của những thành tựu (accomplishments) và những đặc điểm (attribute), và tôi chỉ biết một phần nhỏ (a subset) trong số đó thôi tất nhiên rồi bởi vì hôm nay là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau ngoài đời mặc dù tôi đã nghe nói đến những công trình nghiên cứu của cô từ lâu rồi và chúng ta là đồng nghiệp trong cơ sở trường. Vậy là cô chạy phòng thí nghiệm của cô, nơi mà cô làm (thực hiện) những cuộc nghiên cứu, cô cũng là một vận động viên trong trường đại học một vận động viên thực sự và rồi cô cũng là một bác sĩ tâm lý lâm sàng phải không nào?

AC: Tôi được huấn luyện là một bác sĩ tâm lý lâm sàng nên bằng PhD của tôi là ở trong ngành tâm lý học lâm sàng và tôi thực hiện những sự thực tập trước và sau (ND: lấy bằng PhD) của tôi mà làm việc giải quyết đến việc stress và sang chấn (trauma).

AH: Cô có đang gặp bệnh nhân hay là cô từng gặp bệnh nhân ở thời điểm đó?

AC: Tôi có từng, nhưng mà hiện giờ thì tôi không nữa.

AH: Ok, đó là một sự tập hợp rất là độc đáo của người thực hành và nhà nghiên cứu. Vậy nên đâu là những hệ tư duy mà cô thử và thâu nhập thường xuyên (on a regular basis) như là một kết quả hay có liên quan đến những thứ đó, kiểu như, vận động viên, nhà nghiên cứu, bác sĩ lâm sàng? Bạn biết đó, cho bản thân cô như khi cô đi qua cuộc sống, cô có không một hệ tư duy bao trùm (overarching mindset) rằng tất cả những sự thử thách đều là tốt hay là cô có bất kỳ kiểu hệ tư duy trung tâm mà giúp cô điều hướng qua, bạn biết đó, nó hẳn phải là một tập hợp khá là phức tạp của những việc cần làm thường nhật (daily routines), suy xét là tất cả những thứ mà cô tung hứng trong cùng một lúc (trong lúc đó). Tôi nghĩ rằng những người như cô là rất là độc đáo trong việc là cô có sự hiểu biết bên trong (kiến thức bên trong, inside knowledge) của việc cách thức làm sao những thứ này hoạt động và cô cũng đã tham gia vào những lĩnh vực khác nhau này. Và tôi biết rất là nhiều người nghe chương trình này có một thiên hướng nghiêng về hướng vận động viên nhiều hơn trong cuộc sống của họ hay là nghiêng về mặt nhận thức hơn (cognitive) hay là một số đang nuôi dạy trẻ con và một số người khác thì đang làm những việc khác. Vậy nên, đây là thời điểm lúc mà tôi nghĩ sẽ hữu dụng cho những bạn đang lắng nghe kiểu như là cô làm gì vậy? (AC: Haha) Đây là cái mà tôi đang muốn hỏi.

AC: Yeah, chà, chắc chắn là nó đúng trong trường hợp của tôi, là research (nghiên cứu) là me search (tìm kiếm chính tôi). Tất cả những thứ mà tôi học là một người tri thức học giả đã đến từ kinh nghiệm riêng cá nhân của tôi hay từ chính những thất bại của tôi, phải không nào? Và khi tôi đang tập luyện thể dục cực độ và luyện tập (intensely exercising and training), đó là những câu hỏi mà tôi hỏi khi mà tôi đang xử lý (giải quyết) với lại việc ăn uống và bạn biết đó những lo lắng về cân nặng của tôi. Đó là những câu hỏi tôi hỏi khi mà tôi stress về bài luận văn tốt nghiệp của tôi (dissertation). Tôi quyết định làm bài luận văn của tôi về stress, phải không nào? Và giờ, tôi nghĩ là chúng ta đang ở trong một cuộc đại dịch toàn cầu. Làm sao để những hệ tư duy của ta trở nên hữu dụng ở đây? Bạn biết đó, tôi không nghĩ là có một câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi của anh ngoài việc là ánh sáng chiếu đường cho tôi là một dòng chảy ngầm (undercurrent) của việc hiểu ra rằng những hệ tư duy của chúng ta là có quan trọng. Tôi nghĩ tôi nhận thức được điều đó rất là rõ ràng và sâu sắc khi còn là một đứa trẻ, cả qua trải nghiệm của tôi là một vận động viên. Tôi biết rằng rất nhiều người (bạn) lắng nghe chương trình của anh là vận động viên. Và bất kỳ người vận động viên nào cũng biết là bạn có thể ở trong cùng một trạng thái thể chất giống nhau một ngày này qua ngày khác, một khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác và vận hành (trình diễn, perform) hoàn toàn khác biệt, chỉ phụ thuộc vào việc bạn đang suy nghĩ cái gì. Tôi là một vận động viên thể dục dụng cụ khi lớn lên và nếu bạn không thể hình dung mường tượng ra nếu bạn không thể thấy một cái gì đó trong não của bạn, trong tâm trí của bạn, thì bạn sẽ không có bất cứ cơ hội nào khi bạn đi lên đó trên đà thanh thăng bằng, phải không nào. Và tôi ngoài ra, ba tôi là một nhà võ học (martial artist), một người dạy thiền đạo (thiền định, meditation). Vậy nên kiểu như cái việc làm về tâm trí và cơ thể kiểu như được thấm nhuần vào tôi từ một độ tuổi rất là sớm (là nhỏ) và tôi nghĩ cái mà tôi làm gần đây là cố gắng để hiểu được nó theo một hướng khoa học hơn và quan trọng hơn là tìm hiểu ra làm sao chúng ta có thể làm tốt hơn với điều này, phải không nào? Làm sao chúng ta có thể. Chúng ta đều nói về AI chiếm lĩnh thế giới và công nghệ thế này và tất cả những loại thuốc được cá nhân hóa kia, và nó giống như, chúng ta đã làm rất là ít, theo một hướng tương đối (relatively), rất là ít với nguồn lực con người, những não bộ con người của ta, mà tiềm năng còn tồn đọng trong nó là còn quá lớn (quá tuyệt vời). Chúng ta dường như đã chưa làm gì nhiều cả, hãy lấy hiệu ứng giả dược (placebo effect), chúng ta biết rất là nhiều về nó là gì. Chúng ta làm gần như là không có gì để mà nâng đòn bẩy điều đó lên trong y dược theo một cách có ý thức và chủ đích (consciously and deliberately). Vậy nên, cái điều mà giúp tôi tiếp tục đi tiếp, cái mà giúp tôi vượt qua được những lúc những giai đoạn khó khăn chỉ là câu hỏi luôn gây đốt cháy (that burning question) là điều gì đang diễn ra ở đây vậy và điều gì hơn mà tôi có thể làm với sức mạnh tâm trí của tôi?

AH: Chà, tôi và hàng triệu người khác rất là biết ơn là cô làm những công việc này. Nó thật là quan trọng và nó thật là độc đáo. Hãy nói với chúng tôi ở đâu mà mọi người có thể xem tìm hiểu nhiều hơn về những nghiên cứu của cô, ở đâu họ có thể tìm được cô trên mạng, tôi sẽ cố thử và thuyết phục cô để có sự hiện diện trên mạng xã hội nhiều hơn khi ta đi lên nhưng liệu rằng có hay không tôi thành công trong việc thuyết phục đó, thì làm sao để mọi người có thể tìm thấy cô, đặt câu hỏi, tìm những bài nghiên cứu của cô, tìm hiểu nhiều thêm. Tôi rất muốn mời cô trở lại để có một cuộc trò chuyện (hội thoại) trong tương lai nhưng mà trong lúc hiện tại.

AC: Yeah, thật là một vinh hạnh được chat nói chuyện với anh và chỉ là anh có sức ảnh hưởng đến như thế nào trên thế giới. Và tôi cũng rất trông ngóng (trông mong). Tôi hy vọng chúng ta có thể thực hiện làm một số dự án khoa học chung cùng nhau nữa. (AH: Chắc chắn rồi, chắc chắn rồi). Yeah, tất cả những bài nghiên cứu của tôi và những tài liệu và sự can thiệp (intervention) được đăng tải trên trang web mbl.stanford.edu chúng tôi cũng có một đường link ở đó nữa mà đưa bạn đến Stanford SPARK, viết tắt của Social Psychological Answers to Real world Questions. Chúng tôi có rất nhiều bộ công cụ (toolkits) trên trang web đó, bao gồm một bộ công cụ về cái việc cách tiếp cận nghĩ khác nghĩ về stress của việc nhận thức (ghi nhận, acknowledging), chào đón (welcoming) và tận dụng (utilizing) stress của bạn. Và rồi, tôi đoán là tôi có trên Twitter nữa, Alia Crum, tôi không có nhiều lắm hoạt động ở đó nhưng mà có lẽ tôi sẽ bắt đầu.

AH: Chà tất cả chúng đều là những nguồn tài nguyên thật tuyệt vời. Chúng tôi sẽ cung cấp đường link cho tất cả những nguồn tài nguyên đó (mà cô đề cập) cho những người nghe và người xem của chúng tôi. Và tôi cũng hy vọng thuyết phục cô viết một quyển sách hay là rất là nhiều quyển sách trong tương lai, cả thế giới cần được biết nhiều hơn về việc này nhưng mà cảm ơn rất nhiều cho việc đã dành thời gian ra trong lịch trình bận rộn cực kỳ của cô để nói cho (chia sẻ với) chúng tôi về những ý tưởng này. Tôi học được rất là nhiều, tôi chắc chắn sẽ nghĩ về, cái hiệu ứng của hệ tư duy của tôi về ... (điền vào chỗ trống) là gì, trong tất cả mỗi một khía cạnh của cuộc sống (in every category of life) và thực sự thay mặt cho tất cả mọi người và cả bản thân tôi cảm ơn cô rất nhiều.

AC: Yeah, cảm ơn anh, và tôi đoán là tôi chỉ muốn kết lại bằng việc nói là, tôi nghĩ là công việc nghiên cứu này chỉ là mới là một điểm nhỏ trên tảng băng to (the tip of the iceberg) của việc cái gì có thể và nên được thực hiện. Vậy nên tôi thực sự muốn mời anh, những bạn nghe đài của anh và bất cứ người nào mà cảm thấy có cảm hứng bởi những nghiên cứu này. Nếu họ muốn chia sẻ những câu chuyện hay là muốn hợp tác chung cho một sự cộng tác nào đó thì xin hãy liên lạc đến tôi (please reach out).

AH: Tuyệt vời, chà, và trong phần bình luận bên dưới YouTube là một nơi tuyệt vời để làm điều đó. Cô sẽ nghe tin từ họ.

AC: Tuyệt vời. Hahaha.

AH: Cảm ơn cô rất nhiều, Allie.

AC: Cảm ơn anh.

AH: Cảm ơn bạn đã cùng tham gia với tôi trong cuộc trò chuyện với Tiến Sĩ Alia Crum. Tôi đoán là đến lúc này, bạn có thể trân trọng hiệu ứng to lớn mà hệ tư duy có trên mặt sinh học và tâm lý của ta và làm sao những thứ đó có liên quan tác động qua lại lẫn nhau ở mức độ tâm trí (mind) và cơ thể (body). Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về những nghiên cứu của Tiến Sĩ Crum và thậm chí có lẽ là một người tham gia nghiên cứu trong một trong những nghiên cứu sắp tới của họ về hệ tư duy, bạn có thể truy cập vào trang web mbl.stanford.edu. Ở đó bạn cũng sẽ thấy một phần cho sự hỗ trợ, nơi mà nếu mà bạn thích, bạn có thể thực hiện một số tiền quyên góp (được miễn trừ thuế) để hỗ trợ những nghiên cứu tuyệt vời mà TS Crum và những người đồng nghiệp của cô đang làm. Nếu bạn đang học hỏi từ và hoặc đang thích thú chương trình podcast Huberman Lab, xin hãy đăng ký vào kênh YouTube của chúng tôi, đó là một cách tuyệt vời không tốn kém (chi phí) để mà giúp (hỗ trợ) chúng tôi. Thêm vào đó, xin hãy đăng ký vào chương trình của chúng tôi trên Apple và Spotify. Và trên Apple, bạn có cơ hội để để lại cho chúng tôi một đánh giá lên đến 5 sao. Trên YouTube, bạn ngoài ra cũng có cơ hội để lại cho chúng tôi những câu hỏi và bình luận trong phần bình luận bên dưới bất kỳ tập phát sóng nào. Bạn cũng có thể gợi ý góp ý về những vị khách mời trong tương lai mà các bạn muốn chúng tôi mời tham gia cùng trên chương trình podcast Huberman Lab. Xin hãy ngoài ra cũng xem qua những nhà tài trợ của chúng tôi, được đề cập ở phần đầu của tập phát sóng này. Đó là cách tốt nhất để hỗ trợ chương trình podcast này. Ngoài ra, chúng tôi còn có một trang Patreon, đó là patreon.com/andrewhuberman, và ở đó bạn có thể ủng hộ chương trình podcast ở bất kỳ mức độ nào mà bạn thích. Nếu bạn đang chưa theo dõi chúng tôi trên Instagram, và trên Twitter, chúng tôi tên là Huberman Lab trên cả Instgram và Twitter và ở trên đó tôi dạy khoa học thần kinh ở dạng ngắn (in short form), đôi khi là video, đôi khi là chữ, các slide thuyết trình. Một số những thông tin trong đó trùng lặp với những gì bạn tìm thấy trên chương trình podcast ở đây, còn một số còn lại thì khác biệt so với thông tin mà bạn thấy được trên podcast này. Trên những tập trước của chương trình podcast Huberman Lab, tôi thường bàn về những loại thuốc bổ trợ (supplement). Mặc dù thuốc bổ trợ không nhất thiết hay là được dùng bởi tất cả mọi người, rất là nhiều người có được lợi ích to lớn từ chúng. Một xem xét quan trọng khi dùng thuốc bổ trợ là rằng chúng được lấy nguồn từ những nguồn có chất lượng cao nhất. Vì lý do đó, chúng tôi hợp tác với Thorne, bởi vì những thuốc bổ trợ Thorne dùng những nguyên liệu có chất lượng cao nhất và mức độ cao nhất của sự chính xác (greatest degree of precision) về việc cái gì được liệt kê trên hộp (lọ) thì chính xác là cái mà bạn sẽ tìm thấy trong sản phẩm của họ. Và điều đó chưa hẳn là đúng cho tất cả những công ty sản xuất thuốc bổ trợ. Nếu bạn muốn xem những thuốc bổ trợ nào mà tôi dùng, bạn có thể vào thorne.com/u/huberman và bạn có thể có được giảm giá 20% cho bất kỳ sản phẩm thuốc bổ trợ nào. Thêm vào đó, nếu bạn điều hướng vào trang Thorne qua đường dẫn đó, thorne.com/u/huberman, bạn còn có thể được giảm giá 20% cho bất kỳ những loại sản phẩm bổ trợ nào khác mà Thorne làm sản xuất. Để khép lại chương trình, tôi muốn cảm ơn bạn lần nữa đã tham gia cùng tôi trong cuộc thảo luận của tôi về những hệ tư duy với TS Alia Crum và như mọi khi, cảm ơn sự hứng thú của bạn về khoa học.

Nguồn video:

-------------------------------------------------------------------------