Hiểu và chinh phục trầm cảm
Chào mừng đến với Huberman Lab podcast, nơi chúng ta bàn về khoa học và các công cụ dựa trên khoa học cho cuộc sống hằng ngày.
Tôi là Andrew Huberman, và tôi là giáo sư khoa sinh học thần kinh và nhãn khoa ở Trường Y Stanford. Tháng này, chúng ta sẽ nói tất là về những rối loạn trong tâm trí, những thứ như trầm cảm, rối loạn thiếu hụt sự chú ý (ND: chú ý ngắn, không tập trung lâu được), rối loạn ăn uống, tâm thần phân liệt (schizophrenia) và rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder). Suốt trong tháng này, chúng ta sẽ bàn về những nền tảng về mặt tâm lý và sinh học của của những rối loạn tâm trạng ở đủ tất cả các kiểu. Bạn sẽ học rất nhiều điều khoa học. Bạn cũng sẽ học rất nhiều về những cách điều trị khác nhau hiện đang có và đang trong quá trình (hình thành) phát triển cho những rối loạn tâm trạng khác nhau này. Chúng ta sẽ nói về những công cụ hành vi, những thứ như tập thể dục, thiền định, tập hít thở, nhưng ngoài ra còn có cả thuốc kê đơn, thuốc bổ trợ và những hợp chất mới mà đang được thử nghiệm (kiểm nghiệm) trong các thử nghiệm lâm sàng. Suốt tháng này, tôi nghĩ bạn sẽ bắt đầu nhận ra rằng có những con đường chung (đường lối chung, giống nhau, tương tự) nằm nền bên dưới rất nhiều rối loạn tâm trạng khác nhau. Thực ra là (thực tế là), những rối loạn tâm trạng mà trông khá khác với nhau thường phụ thuộc vào hoạt động của những hóa chất thần kinh hay mạch dây thần kinh giống nhau trong não bộ và cơ thể. Điều đó thực ra nên là một điểm mà (khiến, làm) ta có thể thở phào nhẹ nhõm, bởi vì điểu đó có nghĩa là bằng cách hiểu mặt sinh học của một rối loạn tâm trạng hay hiểu làm sao một cách điều trị hay can thiệp hành vi có thể ảnh hưởng tới một rối loạn tâm trạng, chúng ta có được (thu nhận, lấy được) những kiến giải (insights) vào cả những rối loạn tâm trạng khác nữa. Như mọi khi, chúng ta sẽ bàn về khoa học và những công cụ có liên quan đến khoa học mà mọi người có thể áp dụng nếu họ chọn làm điều đó.
Trước khi chúng ta nhảy lặn vào trong chủ đề của hôm nay, tôi muốn bàn về một tập hợp những khám phá khoa học cụ thể mà có liên quan đến chủ đề nói chuyện của ta hôm nay và (có sự) quan trọng cho việc hiểu được tất cả những rối loạn tâm trạng và tất cả trạng thái của động lực, niềm hạnh phúc, và nỗi buồn, và kể cả trầm cảm. Căn bản là, tôi sẽ tái trích lại (thuật lại, nói lại thành văn theo lời của tôi) một phần ngắn của cuộc thảo luận của tôi với Tiến Sĩ Anna Lembke, người mà tôi cùng ngồi xuống với để nói chuyện (bàn) về sự nghiện (cơn nghiện) và nền tảng sinh học của sự nghiện và cách điều trị những cơn nghiện. Một khía cạnh quan trọng của cuộc thảo luận đó là khi Tiến Sĩ Lembke miêu tả về sự cân bằng giữa sướng và đau (pleasure pain balance), theo đúng nghĩa nghĩa đường dây (circuits) trong não chúng ta mà kiểm soát cảm giác của ta về niềm vui sướng và nỗi đau, và đến cuối cùng liệu rằng có hay không chúng ta vẫn duy trì sự vui vẻ trong việc theo đuổi niềm vui sướng hay không. Đây là một khía cạnh khá là chính yếu (absolutely crucial) trong cách mà chúng ta vận hành trong cuộc sống hằng ngày, và đặc biệt là trong những tình trạng (điều kiện) của rối loạn tâm trạng. Con đường mà cô ấy (TS Anna Lembke) miêu tả là cái mà gọi là hệ thống sự vui sướng. Tuy nhiên, điều mà đa số người không nhận ra là hệ thống sự vui sướng ngoài ra còn liên kết trực tiếp với và thực ra chính là cùng một hệ thống mà điều khiển (điều chỉnh, điều hành, modulate) nỗi khổ sự đau trong tâm trí hay tâm lý. (ND: tức là vui hay buồn gì cũng được điều khiển bởi cùng một cái hệ thống). Bản chất là điều cô ấy miêu tả là bất cứ khi nào chúng ta theo đuổi một điều gì đó mà chúng ta nghĩ sẽ đem lại niềm vui sướng cho ta, và đó có thể là bất cứ thứ gì mà ta nghĩ sẽ mang lại cho ta niềm vui sướng, từ thức ăn, đến video game, đến tình dục, đến một công việc hay mục tiêu cụ thể, ngắn hạn hay dài hạn, mà ta trải qua sự giải phóng của neuromodulator Dopamine. Bây giờ, Dopamine được liên hệ với những mức tăng lên của động lực và sự thúc đẩy, nó không phải là một phân tử của phần thưởng, nó là một phân tử của sự khao khát, động lực và sự thúc đẩy. Tuy nhiên, như TS Lembke đã chỉ ra, khi chúng ta đang trong sự theo đuổi của một điều gì đó, có một sự giải phóng của Dopamine trong não của ta mà làm chúng ta cảm thấy có động lực, và nhìn chung, nó giúp chúng ta cảm thấy tốt. Nhưng rất ngắn sau đó thôi (không lâu sau đó), và nằm bên dưới tầm nhận thức ý thức của ta, có một sự nghiêng lệch nhỏ (tilt) trong sự cân bằng sướng vui trong não, theo đúng nghĩa một sự xoay chuyển trong những mạch dây thần kinh mà nằm nền bên dưới niềm sướng và sự (nỗi) đau, theo cách mà mỗi một miếng niềm vui hay tìm kiếm niềm vui mà gây ra (mang ra lại, đem lại) sự giải phóng của Dopamine sẽ được làm cân bằng hóa (cho đều lại) bởi một chút xíu nỗi đau. Và chúng ta không trải nghiệm điều này dưới hình thức nỗi đau thể xác, ít nhất là lúc đầu không phải, chúng ta trải nghiệm nó như là khao khát muốn được thêm cái thứ mà mang lại cho chúng ta niềm vui. Và điều đó nghe có vẻ hợp lý. Bạn có niềm vui, rồi bạn có một chút nỗi đau (thương) để cân bằng nó. Điều đó diễn ra (là) hoàn toàn trong tiềm thức và bạn trải nghiệm qua nó như là một khao khát (mong muốn) để tìm kiếm thêm nhiều nữa niềm vui. Tuy nhiên, nó thực ra là hơi ma mị (ma ác, quái ác, diabolical) hơn như thế. Và chúng ta thật sự cần chú ý đến nó nếu chúng ta muốn (mục đích của chúng ta) là duy trì sự vui vẻ, nếu chúng ta muốn theo đuổi mục tiêu của ta. Điều (thứ) quan trọng (chính chốt) để hiểu là nếu chúng ta ở trong tình trạng (trạng thái) liên tục theo đuổi niềm vui, mặt bên nỗi đau của cán cân (sự cân bằng đó) sẽ nghiêng, để mà mỗi lần chúng ta theo đuổi cái thứ đầy niềm vui đó, hoạt động, hay chất nào đó, chúng ta sẽ trải qua, chúng ta theo đúng nghĩa đạt được sự giải phóng Dopamine ít hơn, mỗi lần tiếp theo đó. Vậy nên chúng ta nhận được ít niềm vui sướng hơn và số lượng khao khát tăng lên, và sau một điểm nhất định, một ngưỡng, chúng ta gọi đó là sự nghiện. Và cách để tái lập sự cân bằng, và điều này rất là cân bằng, cách để tái lập lại sự cân bằng, đó thực ra là thâm nhập (enter) vào những trạng thái mà chúng ta đang không ở trong sự theo đuôi niềm vui sướng, theo đúng nghĩa thâm nhập (đi vào) vào những trạng thái mà trong đó chúng ta cảm thấy chán, có thể thậm chí một chút chán chường và lo âu, và đó tái lập sự cân bằng sướng đau để mà chúng ta có thể quay trở về sự theo đuổi của chúng ta theo một cách mà khỏe mạnh (lành mạnh) và rồi theo một cách đi tiếp tục, có thể kéo dài (tiếp tục, tiếp nối được), sẽ không dẫn đến sự nghiêng quá mức (over tipping) hay sự tăng lên của mức độ nỗi đau hay (ND: nói đúng hơn là) sự nghiện. Nên điều này khá là quan trọng. Và nếu nó có vẻ mơ hồ, điều này có nghĩa là chúng ta nên luôn cẩn thận (cautious) của bất kỳ trạng thái tâm trí hay trạng thái cơ thể nào hay bất kỳ sự theo đuổi nào mà mang đến (dẫn đến) sự tăng Dopamine khá nhiều, khá lớn. Và nếu nó làm như vậy, chúng ta nên rất là cẩn thận (thận trọng, careful) để không theo đuổi điều đó lặp lại nhiều lần liên tục qua thời gian. Trong tập phát sóng hôm nay, tôi sẽ đưa ra một ví dụ, một ví dụ thực tế (có trong đời sống thực tế) trong một cuộc thảo luận mà tôi đã tham gia với một chàng trai trẻ 21 tuổi người đang xử lý với một sự phá vỡ (rối loạn, mất cân bằng, disruption) của cán cân (sự cân bằng) sướng đau này. Anh ấy về bản chất là đang bị trầm cảm và anh ấy bị trầm cảm bởi vì sự theo đuổi liên tục của một hoạt động cụ thể mà lúc đầu mang lại rất nhiều Dopamine, nhưng qua thời gian đã dẫn đến ít hơn và ít hơn (ngày càng ít) Dopamine và nhiều hơn và nhiều hơn của mặt bên nỗi đau của cán cân (sự cân bằng). Chúng ta có thể nói anh ấy bị nghiện hoạt động đó. Liệu rằng có hay không anh ấy được xem là bị nghiện theo những tiêu chuẩn lâm sàng hay không, thật sự không quan trọng lắm. Điều mà quan trọng là anh ta trải nghiệm qua điều này dưới hình thức là (như một) sự trầm cảm, hay sự xúc cảm thấp (low affect) như nó được gọi hay mất sự thích thú (hứng thú) trong cuộc sống (anhedonia), một sự mất khả năng để cảm thụ được niềm vui sướng từ hoạt động nào đó hay trong bất kỳ thứ nào khác. Anh ấy đang trong đợt điều trị bằng cách tái cân bằng lại con đường sướng đau này của anh. Nên mặc dù tôi không thể tiết lộ danh tính của anh này với bạn, việc đó sẽ không được phù hợp cho lắm, anh ấy đã cho tôi sự đồng ý (sự cho phép tôi) kể ra khung sườn (architecture) chung của những gì anh ấy đang chống chọi với. Và tôi đã dành vài tiếng đồng hồ nói chuyện điện thoại với anh ta tuần này, nói chuyện với anh ta, cả với những người mà anh ta đang làm việc với để thực sự hiểu điều gì đang diễn ra ở đây, bởi vì tôi nghĩ nó có thể minh họa mối quan hệ giữa Dopamine, niềm vui sướng và nỗi khổ đau cho sự nghiện và ngoài ra để cho việc hiểu làm sao để tránh những trạng thái trầm cảm, làm sao để loại (kéo) bản thân ta ra khỏi những trạng thái trầm cảm. Và như bạn sẽ thấy hôm nay, khi chúng ta bàn về, nhiều trong số những phân tử và con đường thần kinh (neural pathways) và những cơ chế sinh học mà chúng ta biết có thể được dùng để chống ngược lại trầm cảm, đều đưa thông tin trở về cán cân sự cân bằng sướng đau này.
Trước khi chúng ta bắt đầu, tôi muốn nhấn mạnh rằng podcast này nằm riêng biệt với những vai trò giảng dạy và nghiên cứu của tôi ở Stanford. Tuy nhiên, nó là một phần khao khát và nỗ lực của tôi để mang đến thông tin (phổ thông/phổ biến/dân dụng) tiêu thụ tiêu dùng không tốn phí về khoa học và những công cụ liên quan đến khoa học cho công chúng nói chung (đại chúng).
Cùng trong một chủ đề đó, tôi muốn cảm ơn những nhà tài trợ cho chương trình podcast hôm nay. Nhà tài trợ đầu tiên của chúng ta là InsideTracker. InsideTracker là một nền tảng dinh dưỡng được cá nhân hóa mà phân tích dữ liệu từ máu và ADN của bạn để giúp bạn hiểu cơ thể của mình hơn và giúp bạn đạt được các mục tiêu sức khỏe của mình. Tôi là một người tin tưởng từ lâu việc mình nên kiểm tra máu thường xuyên vì một lý do đơn giản là rất nhiều những yếu tố mà ảnh hường đến sức khỏe trước mắt và lâu dài của bạn chỉ có thể được phân tích ra từ một mẫu (bài/cuộc/lần) thử máu có chất lượng. Tuy nhiên, vấn đề với nhiều xét nghiệm máu là bạn có được thông tin lại trở về về lượng hóc môn, những yếu tố trao đổi chất, vv. nhưng bạn không thật sự biết phải làm sao với những thông tin đó. Một số thứ có thể bị đánh dấu là quá cao hay quá thấp, nhưng thật sự giải thích những dữ liệu đó và hành động để đem những con số đó vào những mức mà bạn muốn là tất cả những gì mà nó quan trọng. Và InsideTracker làm tất cả những điều đó rất là đơn giản. Họ có một nền tảng, nó là một bảng điều khiển mà sẽ nói cho bạn, ví dụ như, những thay đổi về ăn uống hay những thay đổi về thuốc bổ trợ hay sự thay đổi về tập thể dục sẽ giúp bạn đem những yếu tố hóc môn, trao đổi chất, và những yếu tố khác vào trong những mức mà hợp lý (phù hợp) với bạn. Nếu bạn muốn thử InsideTracker, bạn có thể vào insidetracker.com/huberman. Và nếu bạn vào đó, bạn sẽ được giảm giá 25% cho bất kỳ gói nào của InsideTracker. Chỉ cần dùng mã huberman khi thanh toán.
Tập phát sóng hôm nay cũng được mang đến cho chúng ta bởi Athletic Greens. Athletic Greens là một loại thức uống trợ sinh vitamin khoáng tất cả trong một. Tôi đã dùng Athletic Greens suốt trờ về từ năm 2012 và tôi rất vui vì họ tài trợ cho chương trình này. Lý do tôi bắt đầu dùng Athletic Greens và lý do mà tôi vẫn dùng Athletic Greens là nó thật sự bao gồm tất cả những nhu cầu căn bản của tôi về dưỡng chất và vi dưỡng chất. Nó có vitamin, khoáng chất, và thứ mà đặc biệt quan trọng với tôi ngày nay (dạo gần đây, mấy ngày nay) là những chất trợ sinh, bởi vì có rất nhiều dữ liệu cho thấy rằng có một hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh là thiết yếu (vital) cho việc có một hệ miễn dịch khỏe và cho trục kết nối não và ruột khỏe mạnh, theo đúng nghĩa, sự hoạt động của não bộ, tâm trạng của bạn, những khía cạnh khác của sự viêm não (brain inflammation) hay sự viêm não gây hạn chế (limiting brain inflammation) được điều phối (hỗ trợ, làm cho thuận tiện, facilitate) bởi việc có một hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh. Và việc đó được làm dễ dàng hơn bằng cách uống dùng những loại trợ sinh phù hợp. Nếu bạn muốn thử Athletic Greens, bạn có thể vào athleticgreens.com/huberman. Và nếu bạn vào đó, bạn có thể nhận được khuyến mãi đặc biệt của họ, và khuyến mãi đặc biệt của họ là 5 chai cỡ du lịch, sẽ giúp làm cho việc pha Athletic Greens rất dễ dàng khi bạn đang đi đường hay trong xe, và cả một năm cung cấp vitamin D3 K2. Vitamin D3 K2 đã được cho thấy có một số những hiệu ứng (hiệu quả, kết quả) tích cực về sức khỏe trên hóc môn, trên sức khỏe tim mạch và vv. Và một lần nữa, đó là AthleticGreens.com/huberman để nhận lấy khuyến mãi đặc biệt của họ.
Tập phát sóng hôm nay cũng được mang đến cho chúng ta bởi Belcampo. Belcampo là một trang trại tái sinh (tái tạo, regenerative farm) ở Bắc California mà nuôi những loại thịt được nuôi organic (theo hướng hữu cơ), cho ăn bằng cỏ suốt đến cuối quá trình (grass fed and finished), được chứng nhận là nhân đạo. Bản thân tôi thì không ăn quá nhiều thịt, thông thường chế độ dinh dưỡng của tôi là một chế độ mà trong đó tôi nhịn ăn (fast) đến lúc trưa và rồi tôi dùng bữa trưa mà khá là ít bột đường (tinh bột, carb). Tôi sẽ ăn một miếng thịt hay gà hay cá và một ít xà lách, thường thường là vậy. Và trong bữa tối là khi tôi thường nhấn mạnh (dùng nhiều) hơn chất bột đường, điều đó giúp tôi trở nên thật sự tỉnh táo trong ngày và ngủ ngon buổi tối. Khi tôi ăn thịt, tôi nhất quyết (insist) rằng thịt đó là ở loại chất lượng rất là cao nhất và nó được cấp nguồn theo một cách nhân đạo. Những động vật ở trang trại Belcampo gặm cỏ trên những đồng cỏ rộng mở (open pastures) và những loại cỏ mọc ở đó theo mùa hằng năm, và điều đó mang đến kết quả là những loại thịt có chất dinh dưỡng cao hơn và những chất béo lành tính (healthy fats). Hiện nay có rất nhiều dữ liệu chỉ về một sự thật là lượng lớn axit béo Omega 3 là thiết yếu cho tâm trạng, cho sức khỏe tim mạch và những khía cạnh khác trong việc duy trì cái mà gọi là một inflammatone khỏe mạnh, những thứ khác trong não bộ và cơ thể mà duy trì một phản ứng inflammation khỏe mạnh, nhưng là một chất mà không bị trở nên hoạt động (hiệu ứng) đi loạn xạ (go out of whack) hay trở nên không kiểm soát được nữa theo bất kỳ cách gì mà gây nguy hại (detrimental) cho ta. Nếu bạn muốn thử những (sản phẩm thịt của) Belcampo, những khách lần đầu tiên mua có thể nhận được giảm giá 20% bằng cách vào belcampo.com/huberman và dùng mã huberman khi thanh toán. Đó là belcampo.com/huberman cho giảm giá 20% và dùng mã huberman khi thanh toán.
Hôm nay chúng ta bàn về trầm cảm. Cụ thể là, chúng ta sẽ nói về trầm cảm chính (major depression). Cụm từ trầm cảm chính được dùng để phân biệt một dạng của trầm cảm so với dạng còn lại, cài còn lại là sự trầm cảm lưỡng cực (bipolar depression). Trầm cảm phân cực, đôi khi gọi là bipolar disorder (rối loạn phân cực lưỡng cực), được đặc trưng bởi những sự phấn khích (cao hứng, cao trào, quá kích highs) điên rộ (manic highs), nên là khi người ta không ngủ được ngon và nói chuyện rất là nhanh, và họ đang mua sắm thứ này thứ kia và theo đuổi các nguồn tài nguyên (resources) họ không thể đủ khả năng mua được, họ bắt đầu những mối quan hệ trái và phải, họ hơi điên loạn, theo sau (ND: những cơn cao trào đó) là những giai đoạn đâm sầm xuống của cảm giác khá là thấp, phờ phẫn (đờ đẫn, lethargic) và vv. Trầm cảm lưỡng cực là một thứ cốt yếu (crucial) cho chúng ta bàn luận. Và vì thế chúng ta sẽ có một tập phát sóng riêng biệt toàn tập dành cho (liên quan đến) trầm cảm lưỡng cực. Hôm nay, chúng ta sẽ bàn về trầm cảm chính, ngoài ra còn đôi lúc gọi là trầm cảm đơn cực, chỉ bởi vì nó không có những điểm cao và thấp. Nó được đặc trưng bởi những thấp trào nhiều hơn. Chúng ta sẽ nói về mặt sinh học, tâm lý, những phương thức điều trị khác nhau, thuốc thang, chất bổ trợ (supplement/supplementation), chế độ ăn, tập thể dục, tất cả những thứ đó.
Trước khi chúng ta đi tiếp sâu hơn vào tài liệu ta có, tôi chỉ muốn nhấn mạnh là bất cứ sự bàn luận nào về rối loạn tâm trạng mang theo trong nó một sự nhạy cảm cụ thể, và sự nhạy cảm đó liên quan đến việc tự chẩn đoán. Trong tập hôm nay, và thực ra trong những tập phát sóng tương lai trong tháng này về rối loạn tâm trạng, bạn sẽ nghe về những tên gọi triệu chứng (symptomatologies) khác nhau được dùng để chẩn đoán và đặc trưng hóa (characterize) những rối loạn này. Nếu bạn nhận ra một số của những tên gọi triệu chứng này trong bản thân bạn hay trong những người khác mà bạn biết, đó là một điều quan trọng để ghi chú lại. Tuy nhiên, sự chẩn đoán chính xác thật sự nên được thực hiện bởi một chuyên viên y tế có chứng nhận (qualified healthcare professional). Nên cùng một lúc tôi đang nói, hãy để mắt và tai của bạn chú ý với những thứ mà nghe có vẻ quen thuộc với bạn, mà có thể là mối lo của bạn. Và cùng một lúc, tôi đang nói là đừng nhất thiết nhảy vào việc kết luận. Lấy những lá cờ đỏ của sự lo lắng nếu chúng có xuất hiện ở đó và mang chúng đến một chuyên viên y tế có đủ tiêu chuẩn (điều kiện), và họ sẽ có khả năng (đủ khả năng) để chần đoán cho bạn một cách đàng hoàng, là có một rối loạn tâm trạng cụ thể nào đó hay chẩn đoán một ai đó là có một rối loạn tâm trạng cụ thể nào đó hay không. Và đó là một bước thiết yếu. Tôi không nói điều này để tự bảo vệ chúng tôi (ND: với tư cách những người làm chương trình, nhà nghiên cứu và bác sĩ). Tôi nói nó ra là thật sự để bảo vệ bạn.
Ok chưa nè, hãy có một cuộc bàn luận dựa trên sự thật về trầm cảm. Và tôi hứa với bạn là ở những chỗ mà chúng tôi không biết một số thứ về trầm cảm, tôi sẽ thật rõ ràng nói ra với bạn. Thật sự, chúng ta sẽ nói về một số cách điều trị cho trầm cảm mà đang trông có vẻ rất là hứa hẹn, và đó hiện giờ đang thực sự được sử dụng nhiều và nhiều hơn. Và từ những gì tôi đọc được trong phần tài liệu về cơ chế (mechanistic literature), chúng ta còn đang hơi trong phần u mờ (u tối) về cách thức làm sao những điều này hoạt động. Đó thật sự là một cái nền chung trong y dược (medicine). Rất nhiều lần có những cách điều trị mà thấy có vẻ hứa hẹn hay mà trông rất là tuyệt vời. Và không có nhiều sự hiểu biết về cơ chế. Tuy nhiên, bất kỳ một cuộc thảo luận nào hay về khoa học thần kinh và cụ thể là về rối loạn tâm trạng, phải đi vào những cơ chế. Nên, chúng ta sẽ làm điều (việc) đó. Và trong khi làm việc đó, chúng ta sẽ định hình (định khung, khung định, frame) cuộc nói chuyện (thảo luận) về những công cụ để giữ trầm cảm ở xa ta (keep depression at bay) và làm sao để xử lý nó, nếu bạn tình cờ nhận thấy mình cảm thấy trầm cảm, hay biết một ai đó mà đang trầm cảm.
Vậy cái thứ đó mà ta gọi là trầm cảm nghĩa là gì (là gì vậy, rốt cuộc là gì đây)? Như tôi đã đề cập lúc trước, nó có hai dạng, trầm cảm lưỡng cực, cái mà chúng ta sẽ không nói về hôm nay, và trầm cảm chính, ngoài ra còn gọi là trầm cảm đơn cực là cái còn lại kia. Trầm cảm chính ảnh hưởng 5% trong tổng dân số. Đó là một con số khổng lồ. Đó có nghĩa là, nếu bạn ở trong một lớp có 100 người, 5 người trong số họ đang phải chịu đựng (xử lý) với trầm cảm chính hay có ở một thời điểm nào đó. Hãy nhìn xung quanh bạn trong bất kỳ môi trường nào và bạn có thể chắc rằng một phần lớn những người mà bạn được quay quanh với chịu ảnh hưởng của trầm cảm, hoặc sẽ ở một thời điểm (giai đoạn) nào đó. Nên nó là một thứ mà chúng ta không nên xem nhẹ (nên xem trọng) và rằng chúng ta muốn hiểu. Nó là nguyên nhân thứ 4 gây ra sự mất đi khả năng (mất năng, disability). Rất nhiều người lỡ công việc, bỏ lỡ việc học và trước đó rằng có thể thể hiện (thực hiện) rất tệ trong trường hay công việc bởi vì trầm cảm chính. Bây giờ, có một sự thử thách nghiêm trọng (khá lớn) trong khi có một cuộc thảo luận về trầm cảm và nó liên quan trực tiếp đến những chẩn đoán của trầm cảm. Trước đó, tôi làm một tập phát sóng với TS Karl Deisseroth, người mà thực sự là một người bác sĩ y khoa và là một PhD, anh ấy là một nhà tâm thần học, và anh ấy đưa ra (make) một điểm rất là quan trọng, đó là rằng lĩnh vực của tâm thần học và tâm lý học được đối mặt với một thử thách, đó là họ đang cố tìm hiểu ra điều gì đang diễn ra ở bên trong những thứ ở trong não của ta mà sâu bên trong sọ của ta. Chúng ta không có truy cập vào đó nếu không có những phim chụp (cắt lớp) não (brain imaging), những dây điện (electrode) và những thứ như vậy. Một người nào đó chỉ bước vào văn phòng và công cụ để mổ xẻ trầm cảm, có thể nói rằng, chính là ngôn ngữ. Để xác định liệu một người có trầm cảm hay không, chúng ta phải dùng ngôn ngữ, cách mà họ nói về một số thứ, ngoài ra họ di chuyển cơ thể họ như thế nào, ngoài ra một số mô thức (pattern) chung của sức khỏe. Vậy nên hãy nói về trầm cảm theo cách mà những bác sĩ lâm sàng nói về trầm cảm, bởi vì một trong những vấn đề đó là, chúng ta sử dụng từ trầm cảm khá lỏng lẽo. Rất nhiều người nói, 'Ah, bạn biết đó, tôi cảm thấy trầm quá (buồn quá, nặng quá), tôi không nhận được (được tuyển) công việc này, tôi buồn quá, tôi chỉ, tôi không biết, tôi có một tuần khá khó khăn (rough), tôi kiệt sức, tôi trầm cảm quá' hay 'Tôi trầm cảm quá tôi tưởng tôi sẽ được đi nghỉ mát và rồi họ hủy chuyến bay' Ok chưa nè. Đó không phải là trầm cảm theo cách miêu tả lâm sàng. Đó gọi là bị thất vọng (bummed out), là buồn hay thất vọng. Bây giờ người đó có thể trầm cảm, nhưng trầm cảm theo lâm sàng thực sự có những tiêu chí rất cụ thể. Và những tiêu chí đó được đặc trưng chính của sự hiện diện của một số thứ cụ thể và sự vắng mặt của một vài thứ cụ thể.
Vậy nên hãy nói về những thứ mà hiện diện trong một người mà có trầm cảm chính. Trước tiên, có vẻ có rất nhiều nỗi buồn (sự buồn đau thương) rất sâu sắc nặng nề (grief), có vẻ như có rất nhiều sự buồn (cảm giác buồn, sadness). Đó không phải là điều ngạc nhiên. Ngưỡng mức để khóc thường là một dấu hiện của trầm cảm. Và đó không có nghĩa là nếu bạn khóc dễ dàng (dễ khóc, mít ướt) rằng bạn trầm cảm. Một số người dễ khóc hơn những người khác, nhưng nếu bạn là một người mà không khóc dễ dàng và đột nhiên bạn nhận thấy bản thân bạn rất dễ khóc, đó có thể (có khả năng) là một dấu hiệu của trầm cảm. Và tôi muốn nhấn mạnh là, có thể thôi. Ngoài ra còn có một thứ mà chúng ta gọi là anhedonia (mất sự hứng thú trong cuộc sống), một sự thiếu đi chung khả năng tận hưởng thích thú các thứ, những thứ mà ta từng thích thú, hứng thú trước đó, những thứ như thức ăn, những thứ như tình dục, những thứ như tập thể dục, những thứ như hội tụ xã hội (tụ hợp xã hội), một kiểu loại thiếu mất đi niềm vui (sự hứng thú) vào những việc đó. Đôi khi sự thiếu hụt mất đi sự hứng thú đó là buồn, và đôi khi nó y xi là (nguyên xi là, chỉ là) ngang xẹp lép, nó chỉ là trung lập, nó không cảm thấy tốt bởi vì không có gì ở đó, nó như một món thức ăn vô vị (nhạt nhẽo), nó như những trải nghiệm này có thể so sánh (so sánh song song) với việc cắn vào một miếng thức ăn mà bạn thích ăn và nó chỉ không nếm ngon như vậy nữa, nó chỉ là không cảm thấy (nếm thấy vị) giống vị gì cả (như bất cứ cái gì cả) hoàn toàn. Và đó là một triệu chứng chung của trầm cảm chính.
Cái còn lại là sự tội lỗi. Nhiều lúc những người có sự trầm cảm sẽ cảm thấy rất tội lỗi về những gì họ đã làm trong quá khứ và họ chỉ nhìn chung cảm thấy rất tệ về bản thân. Và chúng ta sẽ nói về điều này vì nó liên quan đến một số triệu chứng trầm trọng hơn có thể thấy ở trầm cảm đôi khi như tự làm hại bản thân, mutilation tự làm hại tổn thương cơ thể, hay thậm chí là tự vận. Nhưng trong thời gian này (trong lúc này), chúng tôi muốn dựng khung lên cho anhedonia, sự thiếu hụt đi khả năng nhận hay trải qua niềm vui sướng, hay là một kiểu cảm xúc xẹp lép như là nó được gọi. Đôi khi (ND: trong số triệu chứng) có cả những suy nghĩ điên rồ, những suy nghĩ điên loạn tiêu cực, và cụ thể là anti-self confabulation (sự tự dựng chuyện tự chống đối lại bản thân. Anti-self confabulation là gì? Đầu tiên, confabulation là một khía cạnh tuyệt vời của tâm trí chúng ta và hệ thần kinh chúng ta, bạn đôi khi thấy những dạng khác của confabulation trong những người lẫn trí (sự thiếu hụt giảm sút về trí nhớ) hoặc là do họ bị chấn thương não hay là họ có sự sa sút trí tuệ (dementia) liên quan đến tuổi tác. Một ví dụ tốt của điều này có thể là một người với sự sa sút trí tuệ (dementia) đôi khi sẽ thấy bản thân họ trong một nơi nào đó trong nhà và không biết làm sao họ lại đến đó. Và nếu bạn hỏi họ 'Ồ, bạn đang làm gì ở đây vậy?' Họ sẽ tạo dựng nên những câu chuyện rất là tường tận chi tiết (elaborate stories). 'Ồ, tôi nghĩ đến việc đi mua sắm hôm nay và tôi định sẽ đi xe buýt và tôi định làm chuyện này', họ tạo ra những câu chuyện tưởng tượng này, họ confubulate (tự dựng lên). Và dù rằng người đó chưa từng rời khỏi nhà trong nhiều tuần và người đó không có bằng lái. Vậy nên họ thật sự chỉ đang tạo ra những thứ (ND: câu chuyện) này thôi. Họ không phải đang xạo (đang nói dối) để thoát bản thân ra khỏi điều gì đó, họ chỉ đang tạo dựng lên thôi. Nó kiểu như một mạch dây thần kinh mà viết ra những câu chuyện bắt đầu sản sinh ra những câu chuyện này. Trong trầm cảm chính, thường có một trạng thái của việc delusional anti-self confabulation (sự tự dựng chuyện theo hướng ảo tưởng/hoang tưởng chống đối lại bản thân) cái mà sự tự dựng chuyện ấy không trực tiếp liên kết hay hoàn toàn liên kết đến thực tế, nhưng nó là những câu chuyện mà làm cho bản thân, người đang kể chúng, có vẻ bệnh hay trong một cách nào đó không khỏe/không ổn. Một ví dụ tốt có thể là một người mà trải qua chấn thương thân thể ví dụ vậy. Có thể họ trật mắt cá chân của họ, có thể đó là một vận động viên và họ cũng (vừa chợt tình cờ) trở nên trầm cảm. Và bạn sẽ nói chuyện với họ và bạn nói, 'Mọi việc thế nào rồi? Quá trình phục hồi (rehab) của anh qua tới đâu rồi?' và họ nói, 'Ồ, nó cũng ổn. Và tôi không biết nữa, tôi chỉ cảm thấy như tôi đang yếu đang yếu dần đi ngày qua ngày, tôi chỉ không thực hiện (perform) tốt' Và rồi bạn nói chuyện với người mà họ đang làm việc với, bác sĩ nghiên cứu chuyển động cơ thể người (kinesiologist) của họ hay là bất cứ người bác sĩ vật lý trị liệu nào. Và họ sẽ nói, 'Không, họ (bệnh nhân đó) thật sự đang cải thiện rất tốt, và tôi nói với họ họ đang cải thiện rất tốt nhưng vì một lý do nào đó họ không thấy được sự tiến triển đó, họ không ghi nhận (register) sự tiến bộ đó lên' Bạn nhận thấy là đôi khi nó rất là nhẹ nhàng (subtle) và đôi khi nó rất là nặng nề (trầm trọng), nhưng họ sẽ bắt đầu tự dựng chuyện, nhưng họ sẽ bắt đầu tự chuyện lên. Bạn sẽ nói 'Tôi thật sự nghe là bạn đang khá lên nhiều, bạn đang khỏe lên, bạn đang đi được vài vòng xung quanh tòa nhà bây giờ, trước đó bạn còn chưa thể bước ra khỏi giường nữa' Và họ sẽ nói, 'Ừ thì họ thay đổi vài thứ gì đó trong khu vực để xe để làm cho nó dễ dàng thuận tiện hơn để đi vòng. Nên nó thật sự không phải là tôi đâu.' Và đây không chỉ là những người chỉ giải thích cho đẩy qua những gì họ đạt được bởi vì họ đang phủi bỏ những lời khen ngợi, họ đang nhìn thấy (xem) bản thân và họ đang tự dựng chuyện lên dựa theo một góc nhìn mà rất là tự hạ thấp bản thân (self-depreciating) đến một mức mà nó không còn sánh ngang (theo khớp, trùng khớp, ăn nhập, match up) với thực tế. Nó không phải là điều mà những người khác nhìn thấy và thật sự nó không ăn khớp với thực tế. Và đó là một triệu chứng của trầm cảm mà tôi nghĩ là chúng ta thường không nghĩ về hay khải niệm hóa đủ. Vậy nên nó không chỉ là nói với người khác, 'Ồ đúng vậy, nó không tốt như trông bên ngoài vậy đâu. Mọi thứ thật tồi tệ', mà là những người này thực sự tin vào điều đó và nó trở nên mất kết nối với thực tế. Nên nó theo kiểu như nó đang lúng sâu vào một cái hố (pit) và họ đang mất liên lạc với những hiện thực ở ngoài cuộc sống, bao gồm cả những dữ liệu về bản thân họ, khả năng di chuyển và xử lý nó (get around it). Ví dụ như, trong một trường hợp cụ thể đó, có những ví dụ khác nữa.
Triệu chứng chung khác của trầm cảm chính, là cái mà họ gọi là vegetative symptoms, ok chưa nè. Vegetative symptoms là những triệu chứng mà xuất hiện mà không có bất cứ nghĩ ngợi gì, chẳng có làm gì, hay không có bất kỳ sự tự dựng chuyện nào lên cả. Đây là những điều có liên quan đến mặt sinh lý học cốt lõi của ta. Chữ vegetative, bạn có thể biết là nó nghe giống như vegetable (rau củ). Nó thực ra (thực sự) có liên quan đến một hệ thống trong cơ thể mà ngày nay được (thông thương) gọi (với tên gọi thông thường) là hệ thần kinh tự chủ (autonomic nervous system). Hệ thần kinh vegetative và hệ thần kinh autonomic, trong lịch sử được xem là kiểu như cùng là một và y chang nhau. Và nó liên quan đến những thứ như phản ứng stress hay đến khả năng ngủ của chúng ta. Nên những triệu chứng vegetative là những thứ như liên tục cảm thấy kiệt sức. Cái người đó chỉ cảm thấy kiệt sức. Đó không phải là vì họ tập thể dục quá nhiều, nó không nhất thiết là bởi vì một sự kiện cuộc sống, nó có thể (có khả năng), nhưng họ chỉ quá vắt kiệt sức. Họ không có nguồn năng lượng mà họ từng có. Nên nó không phải là ở trong đầu họ suy nghĩ ra, nó có thể, và giờ tôi nghĩ là chúng ta có những dữ liệu khá chắc chắn (khá tốt) để ủng hộ sự thật rằng có một cái gì đó đang bị tắt đi (phá vỡ, không hoạt động bình thường). Một thứ gì đó đang bị phá vỡ (disrupted) trong hệ thần kinh autonomic hay còn gọi là vegetative nervous system. Và một trong những triệu chứng thường gặp (thông thường) nhất của những người với trầm cảm chính, một trong những dấu hiệu của trầm cảm chính, là thức dậy sớm và không thể ngủ lại mặc dù đang cảm thấy kiệt sức. Nên thức dậy lúc 3 giờ sáng hay 4 giờ sáng hay 5 giờ sáng, chỉ hoàn toàn tự giựt mình thức và không thể quay trở lại ngủ tiếp lại được. Tôi muốn nhấn mạnh là điều đó có thể xảy ra vì những lý do khác nữa, nhưng nó là một triệu chứng chung thường gặp hay một dấu hiệu đáng lưu ý của trầm cảm chính.
Vậy nên hãy nói nhiều hơn về giấc ngủ và sự trầm cảm. Nó được biết đến nhiều là cấu trúc (architecture) của giấc ngủ bị phá vỡ (gián đoạn, disrupted) bởi trầm cảm. Vậy cấu trúc của giấc ngủ là gì? Tôi đã làm toàn một tập về vấn đề (chủ đề) này, nhưng để tóm gọn lại trong hai câu, mặc dù chúng có thể là câu nối tiếp kéo dài (tức là câu đi kéo dài có thể sai văn phạm và không ngắt nghỉ, run on sentences), sớm trong buổi tối, bạn có xu hướng có giấc ngủ sóng não chậm nhiều hơn giấc ngủ REM hay Rapid Eye Movement Sleep (giai đoạn ngủ mà mắt chuyển động nhanh). Khi buổi tối diễn ra (trôi qua, đi qua), bạn có xu hướng có giấc ngủ REM nhiều hơn. Cấu trúc đó của giấc ngủ sóng não chậm đi trước giấc ngủ REM bị phá vỡ hoàn toàn (radically disrupted) bởi trầm cảm chính. Thêm vào đó, mô thức (kiểu mẫu, pattern) hoạt động của não trong những giai đoạn cụ thể của giấc ngủ bị gián đoạn (phá vỡ). Và đây là trong quá trình giấc ngủ, và nó không có thể là người ta đang tạo ra tình huống cho bản thân họ. Đây là những dấu hiệu sinh lý là có một thứ (cái) gì đó đang không hoạt động ổn định trong cái mà gọi là hệ thần kinh tự chủ hay vegetative. Và rồi có cả một số thứ khác mà có liên quan đến hệ thần kinh tự chủ autonomic, nhưng là cái mà chúng ta thường nghĩ đến là tự nguyện (tự xuất hiện) theo bản chất. Và đây là những thứ như giảm vị giác. Nên bạn có thể tưởng tượng rằng một người có thể có vị giác giảm đi bởi vì sự anhedonia (sự mất hứng thú vào các thứ trong đời sống), sự giảm đi niềm yêu thích với thức ăn, phải không nào? Nếu bạn không thưởng thức (cảm nhận thích thú) thức ăn, và rồi bạn có thể cảm thấy ít động lực hơn để ăn nó. Điều đó cũng hợp lý. Cũng là vì bởi vì những sự phá vỡ trong hệ thần kinh tự chủ, những triệu chứng vegetative, như chúng được gọi, bạn có thể tưởng tượng rằng một người có sự giảm đi vị giác bởi vì một số hóc môn liên quan đến vị giác (khẩu vị), hypocretin orexin, và những thứ kiểu như vậy, ghrelinm, rằng những thứ đó sẽ bị rối loạn (bóp méo, tổn thương, disrupt). Và nếu những cái tên đó của hypocretin orezin và ghrelin không có nghĩa lý gì với bạn, đừng lo lắng về điều đó. Những cái đó, chúng là gì là chỉ là những hóc môn mà ảnh hường đến khi nào chúng ta ăn, khi nào chúng ta cảm thấy đói bụng, và khi nào chúng ta thèm đồ ăn hơn, đồng thời cả khi nào chúng ta cảm thấy no, chúng ta có cái gọi là satiety (sự, cảm giác đầy bụng). Nếu bạn muốn tìm hiểu hơn về những cái đó, chúng tôi có làm nguyên một tập toàn tập về ăn uống và sự trao đổi chất.
Và bạn có thể thấy rằng những tên gọi triệu chứng của trầm cảm chính ảnh hưởng đến ta ở những mức độ khác nhau (nhiều mức độ, multiple levels). Có một mức độ ý thức của chúng ta hào hứng đến mức nào thông thường. Và nó được giảm xuống. Có cả nỗi đau thương (grief), có cả cảm giác tội lỗi, có khóc, nhưng rồi còn có cả những thứ vegetative này. Có sự phá vỡ trong giấc ngủ, điều mà làm mọi thứ còn lại thách thức hơn nhiều khi chúng ta thức giấc. Chúng ta biết giấc ngủ là tối quan trọng (thiết yếu, cần thiết, vital) cho việc tái thiết lập. Bạn thức sớm, bạn không thể trở về đi ngủ lại. Điều đó sẽ điều chỉnh cảm xúc, cảm giác (affect, emotions) của bạn trong (theo) những cách tiêu cực. Chúng ta biết điều này. Và khẩu vị bị giảm xuống (tắt đi, off). Và rồi có cả những hóc môn mà bị phá vỡ (tổn thương). Nên lượng cortisol tăng lên. Cụ thể, có một mô thức ghi dấu ấn (đặc trưng, signature) của trầm cảm mà ở đó cortisol, hóc môn stress mà thường thường được giải phóng trong một cách lành mạnh (khỏe mạnh) chỉ trong phần sớm của ngày hôm đó (một ngày) được dời lại giải phóng trễ hơn trong ngày. Trong thực tế, sự đỉnh điểm lúc 9 giờ tối của cortisol là một trong những dấu ấn sinh lý (physiological signature) của những trạng thái giống trầm cảm (depressive like states). Nó không phải là dấu ấn (đặc trưng) duy nhất, nhưng nó là một cái quan trọng. Nên có rất nhiều thứ xảy ra trong trầm cảm chính. Tới lúc này, có lẽ bạn đang nghĩ, ôi trời ơi, điều này thật khủng khiếp (tồi tệ, dreadful) như là nó là tất cả những thứ tồi tệ này. Và thực sự là nó tồi tệ. Đó là một sự tồi tệ để cảm thấy một bản thân ai đó trong một tâm trạng (trạng thái tâm lý) mà các thứ cảm thấy buồn bã (buồn tẻ), bạn cảm thấy tội lỗi, bạn kiệt sức và nhiều lúc nó còn có sự liên hệ với hệ thống lo âu. Vậy nên chỉ vì người ta cảm thấy kiệt sức, phờ phẫn đờ đẫn (lethargic) và họ không yêu thích thích thú với các thứ, không nhất thiết có nghĩa là có sự vắng mặt của sự lo âu. Nó có thể có rất nhiều sự lo âu về việc điều gì sẽ xảy ra với tôi, liệu tôi có thể đạt được những mục tiêu của tôi trong cuộc sống, tôi có bao giờ ra khỏi trạng thái này? Và các thứ bắt đầu chồng xếp lớp lên. Và nếu điều này nghe có vẻ hơi nặng nề (trầm cảm) với bạn, nó là thực chất khá nặng nề. Đây thật sự là nơi mà rất nhiều người tìm thấy, nhận thấy bản thân họ (mình). Và nó là một cái hố (pit) mà họ chỉ không biết làm sao để leo ra khỏi.
Vậy nên hãy dành (dùng) vài phút và nói về một số của mặt (khía cạnh) sinh học làm nền mà tạo ra đám mây hay khối (cụm, sự hợp thành, constellation) của các triệu chứng (symptomatology). Tôi nghĩ đó là điều rất quan trọng để làm bởi vì nếu chúng ta muốn hiểu những cách điều trị khác nhau, nó hoạt động như thế nào và tại sao nó lại hoạt động và cách nào để áp dụng chúng, chúng ta phải hiểu một số mặt (khía cạnh) sinh học nằm nền ở bên dưới. Vậy nên hãy dành một vài phút nói về khía cạnh sinh học của trầm cảm. Điều gì ta biết, điều gì ta chưa biết. Bởi vì khi làm việc đó, tôi nghĩ bạn sẽ có một bức tranh rõ ràng hơn nhiều về việc tại sao một số công cụ hoạt động (có hiệu quả) để giảm đi (relieve) trầm cảm và tại sao một số khác lại không. Nên một trong những khám phá quan trọng ban đầu (important early findings) trong sự tìm kiếm cho một nền tảng sinh học cho trầm cảm là sự khám phá (tìm hiểu / kiếm) ra là có những loại thuốc mà làm giảm nhẹ một số triệu chứng của trầm cảm. Những loại thuốc đó thường rơi vào 3 phân loại chính (major categories) nhưng tập hợp đầu tiên của loại mà được khám phá ra là cái mà được gọi là thuốc chống trầm cảm tricyclic và những chất ngăn cản MAO, những chất ngăn cản monoamine oxidase inhibitors. Bạn không cần phải hiểu tên gọi đó nhưng tôi sẽ cho bạn một số chi tiết để mà nếu bạn muốn hiểu nó, bạn có thể. Đa phần các nghiên cứu này diễn ra vào cuối thập niên 1950 và trong những thập niên 1960 và được kéo dài (tiếp tục) đến 1980, khi các phân khu (classes) của các loại thuốc được khám phá ra. Và những thuốc chống trầm cảm tricyclic và những chất ngăn cản MAO này phần lớn hoạt động bởi làm tăng lên mức độ của norepinephrine trong não, và cả trong cơ thể, trong một số trường hợp. Và nó được khám phá ra qua một loạt những tình huống khá kỳ lạ (lạ thường). Chúng ta không có thời gian để đi vào chi tiết các phần lịch sử nhưng mà cũng đủ để ta nói là chúng được khám phá ra bởi vì sự khám phá của những loại thuốc mà điều chỉnh huyết áp. Norepinephrine ảnh hưởng đến huyết áp, và những loại thuốc mà làm giảm huyết áp làm giảm mức độ norepinephrine. Và điều đó trong rất nhiều trường hợp, được cho thấy là dẫn đến sự trầm cảm hay những triệu chứng giống trầm cảm. Và rồi những loại thuốc này, những loại thuốc tricyclic và những chất ngăn cản MAO thực sự làm tăng lượng norepinephrine. Và thực sự ra (frankly), chúng làm khá tốt trong việc làm giảm nhẹ một số, nếu không nói là tất cả những triệu chứng của trầm cảm chính. Tuy nhưng, chúng mang theo rất nhiều tác dụng phụ. Một số những tác dụng phụ đó là những tác dụng phụ liên quan đến bản thân chính huyết áp bằng việc tăng lên lượng noradrenaline, norepinephrine như nó được gọi, bạn tăng huyết áp lên. Điều đó có thể nguy hiểm, nó có thể gây khó chịu (không thoải mái). Nhưng chúng còn có rất nhiều những tác dụng phụ khác. Lý do chúng có những tác dụng phụ khác là bởi vì chúng ảnh hưởng những hệ thống trong não và trong cơ thể mà ảnh hưởng tới những thứ như libido (dục tính), khẩu vị, tiêu hóa và những cái (điều) khác nữa. Và chúng ta sẽ nói về những điều đó theo thứ tự.
Ok, vậy nên trải nghiệm mà những bác sĩ lâm sàng mà quan sát một số sự giảm nhẹ cho trầm cảm với những thuốc trầm cảm tricyclic và những chất ngăn cản MAO là thật tuyệt vời nhưng có cả những tác dụng phụ này, những tác dụng mà mọi người không thật sự thích, họ không thật sự thích những loại thuốc này một chút nào. Rất nhiều người bị khô miệng, tôi đã đề cập dục tinh thấp, họ có những vấn đề giấc ngủ, vấn đề khẩu vị, tăng cân. Chúng làm một số người quá khó chịu đến mức mà họ thà không uống (dùng) chúng (các loại thuốc đó) thì hơn, mặc dù khi họ không dùng thuốc họ sự trầm trọng (tồi tệ) đi hay sự duy trì những triệu chứng trầm cảm của họ.
Một thập kỷ hay sao sau đó, có một sự khám phá ra của cái mà gọi là những đường dẫn của niềm vui sướng. Có những đường dẫn, theo đúng nghĩa là những nhóm nơ ron mà nằm trong những vùng (khu vực, vị trí) khác nhau trong não bộ nhưng kết nối với chúng lẫn nhau. Nên nó là một mạch dây. Và khi bạn kích thích những nơ ron này với một số hành vi cụ thể hay là với kích thích điện (kích điện) trong một thí nghiệm, tin hay không, điều đó đã được thực hiện trên cả động vật và con người, con vật và con người trở nên rất là rất là có động lực để có được thêm những kích thích như vậy của những đường dẫn này. Vậy nên con đường dẫn vui sướng này hay những mạch dây cho sự vui sướng (niềm vui) là rất là theo cách ta gọi là mang tính củng cố. Thực tế, con vật và con người sẽ làm việc siêng năng để có được kích thích trong những vùng não bộ này thậm chí còn hơn khi họ làm việc siêng năng (cật lực) để có được sự quan hệ tình dục, thuốc (ma túy, thuốc phiện), hay thậm chí nếu họ bị nghiện một loại thuốc cụ thể và họ đang trong trạng thái sắp cai nghiện được rồi (thoái lui, ngưng thuốc, in a state of withdrawal), trạng thái tột đỉnh của sự thèm (ultimate state of craving), nếu cho sự lựa chọn, một người hay một con vật, sẽ chọn để có được sự kích thích của đường dẫn niềm vui sướng này thay vì chính bản thân cái thuốc (mà họ nghiện). Và đó là một khám phá lớn và đáng kể (mang tính quan trọng). Con đường dẫn niềm vui sướng này, như nó thường được gọi, bao gồm những vùng não như nucleus accumbens và vùng ventral tegmental. Đây là những vùng của não bộ mà có dồi dào (có nhiều) những nơ ron mà tạo ra (sản sinh) ra Dopamine. Và nếu bạn nghĩ đến những triệu chứng của trầm cảm, của anhedonia, thiếu/mất đi niềm vui sướng hay mất đi (thiếu hụt) khả năng trải nghiệm niềm vui sướng, đó là một dấu hiệu bốc khói (như cây súng bốc khỏi, smoking gun) là một thứ gì đó đang không đúng với con đường dẫn Dopamine trong trầm cảm. Và thực tế tình huống nó là như vậy. Nên nó không chỉ là norepinephrine, nó ngoài ra còn là Dopamine hay con đường dẫn niềm sướng vui bị theo một cách nào đó, phá vỡ.
Và rồi trong những thập niên 1980, có một khám phá của cái mà gọi là SSRI (Selective Serotonn Reuptake Inhibitors, những chất ngăn cản sự tái hấp thu có chọn lọc serotonin, thuốc chống trầm cảm). Đa số người chúng ta khá là quen thuộc với SSRI, Selective Serotonin Reuptake Inhibitors. SSRI hoạt động dựa trên những cơ chế riêng biệt (distinct mechanisms) từ những thuốc trị trầm cảm tricyclic và những chất ngăn cản MAO. Như tên gọi của chúng cho biết (cho thấy, gợi ý), SSRI, Selective Serotonin Reuptake Inhibitors, ngăn cản serotonin khỏi việc bị hút lên khỏi xi náp (synapse) sau khi hai nơ ron trao đổi thông tin (nói chuyện) với nhau. Ý tôi là sao bởi câu nói đó? Đây là một số thông tin rất là căn bản Neurobiology 101 (Khoa học thần kinh vỡ lòng). Nếu bạn không biết bất kỳ thông tin Neurobiology (khoa học thần kinh) nào, bạn sẽ biết được một chút trong vòng 15 giây tới (tiếp theo đây). Nơ ron trao đổi thông tin qua lại lẫn nhau, bằng cách bắn ra những hóa chất vào trong những khoảng không (khoảng trống, khe hở) nhỏ giữa chúng. Khe hở nhỏ giữa các nơ ron được gọi là xi náp (synapse) hay theo giọng Anh, phát âm là xai náp (synapse). Những hóa chất đó kết nối với (bind to) nơ ron ở phía đối diện bên kia và tạo ra những thay đổi trong hoạt động điện trong (của) nơ ron ấy ở phía bên kia của xi náp. Serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh như vậy (neurotransmitter), hay cụ thể hơn, một neuromodulator (chất điểu chuyền thần kinh), có thể thay đổi hoạt động của một nhóm lớn các nơ ron theo những cách rất là ý nghĩa. Selective Serotonin Reuptake Inhibitor nghĩa là khi một người uống thuốc này, một số loại thuốc đó bao gồm những thứ như Prozac hay Zoloft, tên gọi thường hay tên gọi chung là những thứ như fluoxetine, khi người ta uống những thuốc đó, có nhiều serotonin hơn ra 'chơi vui đùa' ở xi náp và có thể được nhặt lên, lấy lên, tiếp nối thêm, truyền đi bởi nỏ ron trên phía bên kia bởi việc ngăn cản sự tái hấp thu có chọn lọc serotonin. Nó ngăn cản sự dọn sạch đi serotonin từ xi náp và từ đó có nhiều hơn (lượng) serotonin tồn tại trong đó để tạo ra một hiệu quả. Vậy nên SSRI không làm tăng lượng serotonin tổng thể trong não. Chúng thay đổi độ hiệu quả (liệu) những serotonin mà đã có sẵn trong não sẽ hiệu quả đến mức nào trong việc thay đổi hoạt động của nơ ron, ok chưa nè. Vậy nên chúng không tăng lên lượng serotonin, chúng tăng sự công hiệu (sự hiệu nghiệm, efficacy) hay hoạt động (chức năng) của serotonin theo một (theo như) cách mà tôi vừa miêu tả. Vậy nên nó là đã hơn, quá hơn 15 giây, nhưng bậy giờ bạn đã hiểu cách làm sao SSRI hoạt động.
Và tôi sẽ không nói về SSRI nếu mà chúng thật sự không hiệu quả. Đúng vậy, có rất nhiều vấn đề với SSRI. Chúng có mang theo chúng rất nhiều tác dụng phụ cho nhiều cá nhân. Ngoài ra, khoảng một phần ba số người mà dùng SSRI không có (nhận được, thu nhặt được) lợi ích nào cả. Nó không làm giảm đi những triệu chứng trầm cảm của họ. Tuy nhiên, cho hai phần ba còn lại, thường có một sự giảm nhẹ nếu không phải (nếu không nói là) tất cả những triệu chứng của trầm cảm chính. Vấn đề là những tác dụng phụ mà đi kèm với những loại thuốc SSRI đó. Vậy nên ngày nay SSRI là một chủ đề phức tạp (khá nhạy cảm), nó là một chủ đề mà tôi gọi là một chủ đề kẽm gai (barb wired topic) bởi vì chúng ta thường nghe về rất nhiều (đủ loại) vấn đề với chúng. Nhưng những loại thuốc này cũng đã cứu được rất nhiều mạng người. Chúng cũng đã cải thiện được rất nhiều cuộc sống của nhiều người. Vấn đề là chúng thường có những tác dụng khác biệt nhau trên những cá nhân khác nhau và đôi khi cả những hiệu quả (tác dụng, độ xi nhê) khác nhau qua thời gian. Vậy nên chúng có thể có tác dụng trong một lúc và rồi chúng không còn có tác dụng trong một lúc khác nữa. Cũng có rất nhiều điều bí ẩn về SSRI và những bí ẩn đó làm người ta băn khoăn (làm phiền lòng, e ngại). Những bí ẩn nào mà tôi đang nói đến vậy ạ? SSRI tăng số lượng serotonin hay cụ thể hơn, chúng tăng độ hiệu nghiệm (công hiệu) của serotonin ở vùng xi náp, điều đó xảy ra ngay tức khắc hay rất là nhanh sau khi người ta bắt đầu dùng SSRI. Nhưng người dùng thường không bắt đầu trải nghiệm sự giảm bớt nào của những triệu chứng của trầm cảm của họ hoặc nếu họ có trải nghiệm điều (việc) đó hay không, cho tới khi 2 tuần sau khi họ bắt đầu uống những loại thuốc đó. Vậy nên có điều gì đó diễn ra ở đó mà không quá rõ ràng đối với ta. Một ý tưởng là SSRI thật sự có thể cải thiệm những triệu chứng trầm cảm hay thậm chí xóa bỏ (loại bỏ) những triệu chứng của trầm cảm qua cái mà gọi là neuroplasticity (sự khả biến thần kinh) bằng cách thay đổi cách mà những mạch dây thần kinh hoạt động. Và có rất nhiều nghiên cứu trong (cho) việc này, nhưng những thể loại nghiên cứu chính cho SSRI mà có liên quan đến sự (tính) khả biến thần kinh rơi vào hai loại chính (two camps). Một là những cách mà SSRI có thể, và tôi muốn nhấn mạnh là, có thể, kích thích sự sản sinh (production) của nhiều nơ ron hơn trong não, cụ thể trong những vùng của vùng hải mã (hippocampus) gọi là vùng dentate gyrus và những vùng khác, mà có ảnh hưởng đến trí nhớ. Điều này là quan trọng, chúng ta sẽ quay trở lại với chủ đề trí nhớ. Cái còn lại là SSRI được cho thấy trong những nghiên cứu khoa học khác nhau là để tái khai mở (tái mở lại, tái khai trương???) những giai đoạn tối quan trọng (critical periods) của sự khả biến (plasticity). Tôi sẽ miêu tả ngắn gọn một trong số những nghiên cứu đó. Có một nghiên cứu được thực hiện bởi nhóm của Lamberto Maffei ở Pisa, mà khám phá sự khả biến của não, mà được biết là có hiện diện ở những động vật lúc còn nhỏ và biến mất đi trong những động vật lớn tuổi hơn. Điều này cũng đúng trong (với) con người rằng người nhỏ (trẻ) hơn có một não bộ có tính khả biến hơn mà có thể thay đổi trong (theo) nhiều cách dễ dàng hơn so với một não bộ lớn tuổi hơn. Và điều họ cho thấy là fluoxetine, Prozac, đưa cho người lớn uống có thể mở ra lại giai đoạn tuyệt vời của sự khả biến, có thể cho phép nhiều sự khả biến hơn để diễn ra. Điều đó khá là thú vị, ý tôi là, nó là chỉ đơn thuần qua việc tăng lên lượng serotonin truyền tải qua (serotonin transmission). Và có những nghiên cứu khác cho thấy (chỉ ra rằng) fluoxetine có thể tăng số lượng nơ ron mới mà được sản sinh ra trong não của người lớn, hay còn gọi là tái sinh não neurogenesis, sự sản sinh ra những nơ ron mới. Nên nó rất là rõ ràng là có ít nhất ba hệ thống hóa chất chính trong não chúng ta: norepinephrine, dopamine và serotonin mà có liên quan đến và có thể điều chỉnh những triệu chứng của trầm cảm. Và những hóa chất đó thực sự có thể được chia ra theo những thể loại khác nhau (riêng biệt). Nên ví dụ như, epinephrine hay norepinephrine được nghĩ là (cho là) liên quan đến những cái gọi là psychomotor defects (những chỗ lệch, sai phạm, khuyết điểm trong thần kinh vận động), đôi khi gọi là psychomotor retardation (sự làm chậm thần kinh vận động). Đây là sự đờ đẫn (phờ phẫn, lethargy), đây là sự kiệt sức, đây là khả năng không có thể (không thấy có sức) lôi mình ra khỏi giường vào buổi sáng. Dopamine được cho là (nghĩ là) liên quan đến anhedonia, hay đúng hơn tôi nên nói là sự thiếu hụt Dopemine trong những bệnh nhân trầm cảm, được cho là dẫn đến anhedonia. Sự mất đi khả năng trải nghiệm sự thích thú / niềm vui sướng trong cuộc sống. Và serotonin được cho là (được nghĩ là) có liên quan đến sự đau thương, cảm giác tội lỗi, một số của những khía cạnh thiên về nhận thức nhiều hơn hay cảm xúc nhiều hơn của trầm cảm. Vậy nên ta có hệ thống norepinephrine liên quan đến sự hoạt động và sự tỉnh táo (alertness), hệ thống Dopamine liên quan đến động lực, niềm vui sướng, và khả năng để tìm kiếm và trải nghiệm niềm vui sướng, và rồi hệ thống serotnin mà có liên quan đến sự (nỗi) đau thướng. Và khốn thay (unfortunately), não bộ và các sinh vật không hoạt động theo một cách đơn giản toán học khi mà bạn chỉ nói, ồ kìa, người này đang cảm qua (trải qua, cảm thấy) rất nhiều sự đau thương nhưng họ không có vấn đề gì về lethargy (sự bơ phờ, thờ thẫn), vậy nên hãy cứ tăng lên độ serotonin của họ. Trên mặt giấy tờ, nó có hiệu quả, nhưng nhiều khi ngoài đời, nó không hoạt động trong cách (môi trường) lâm sàng. Và một bệnh nhân khác, bạn có thể lấy lại (kéo lại, đem lại) một người mà không thể trải nghiệm niềm vui nhưng họ có vẻ hơi lo âu, họ không có vấn đề gì về giấc ngủ, nhưng họ chỉ khá là rất là nhiều lo âu và bực dọc (anxious and frustrated) mà họ thường và họ khớp đúng với những triệu chứng của trầm cảm. Và bạn có thể nghĩ, ồ queo, vậy ta chỉ cho người đó một vài liều (loại) thuốc mà làm tăng Dopamine và mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn? Và thực chất, trong một số trường hợp, điều đó là đúng. Có những loại thuốc như Wellbutrin, mà hoạt động cụ thể hơn trên hệ Dopamine để tăng lượng Dopamine và nó cũng tăng Norepinephrine. Rất nhiều người có được sự giảm nhẹ (great relief) từ những thứ như Wellbutrin. Chúng không ảnh hưởng hệ thống serotonin nhiều đến mức (nhiều quá mức). Và vì thế bạn không có quá nhiều serotonergic hay những tác dụng phụ của serotonin. Tuy nhiên, một số người cảm thấy quá lo âu, lo âu quá nhiều khi dùng những thuốc đó. Một số người bị nghiện (trở nên nghiện) những loại thuốc đó theo (trong) một cách nào đó, bởi vì rất nhiều trong những loại thuốc đó mà làm tăng Dopamine làm (khiến) bạn thèm (muốn) hơn thêm nhiều những loại (cái) thuốc đó. Vậy nên bạn bắt đầu nhận ra những gì nghe có vẻ có lý trên giấy, không luôn luôn có lý trong môi trường lâm sàng. Và đó là lý do vì sao điều này khá phức tạp. Và một nhà tâm lý học thật giỏi và một nhà tâm thần học thật giỏi sẽ làm việc với một người nào đó (một bệnh nhân) để cố gắng kéo và đẩy những hệ thống khác nhau này để tìm một sự phối hợp, hỗn hợp của (các loại) thuốc mà có thể hoặc có thể không đúng, phù hợp, hợp lý với họ. Có một khía cạnh thứ tư của sự hóa học (mặt hóa học) của trầm cảm mà rất là quan trọng để hiểu. Và đó là nỗi đau (pain). Chúng ta đã nói về nỗi đau trên chương trình podcast này qua rồi, nhưng mặc dù thậm chí nếu bạn chưa nghe qua tập đó về niềm vui sướng và nỗi đau, tôi chỉ muốn nhấn mạnh là nỗi đau là một thứ mà chúng ta trải nghiệm trong cơ thể, không có gì ngạc nhiên gì cả, một chấn thương, một vết cắt, vv. nhưng chúng ta cũng trải nghiệm qua nỗi đau cảm xúc. Và những hệ thống đó được liên kết với nhau theo những đường dây rất là phức tạp (very intricate ways). Thật sự có những dữ liệu cho thấy rằng những loại thuốc giảm đau, Tylenol, Aspirin và những loại kiểu thứ này, có thể giúp một số người với nỗi đau cảm xúc (tinh thần). Và tôi không đang khuyến khích mọi người chạy ra và dùng những loại thuốc đó cho nỗi đau cảm xúc (tinh thần). Nhưng thực ra, nếu bạn nghĩ về điều đó, việc này không (đến như một sự) có gì quá ngạc nhiên cả, khi kể khi tính cả (khi xét là, given that) một số lượng lớn những người đang dùng các loại thuốc giảm đau, thuốc giảm đau dạng opiod (opiods) và những thứ như vậy để thử và giảm nỗi đau tâm lý của họ. Và như ta biết, những loại thuốc đó gây ra rất nhiều, rất nhiều vấn đề cho rất nhiều cá nhân. Chúng có thể giúp một số cá nhân cụ thể nhưng chúng cũng rất dễ gây ra xu hướng lạm dụng (prone to abuse) và chúng có thể gây nghiện (induce addiction) rất dễ dàng trong một số người. Có một loại chất gọi đúng như nó (theo đúng nghĩa) là chất P, ký tự P, mà được chế tác (sáng tạo, sản sinh ra, manufactured) bởi các nơ ron trong não và cơ thể ta, mà nằm lớp dưới xúc cảm của ta về nỗi đau (sensation of pain). Và thực chất, những chất ngăn cản chất P, đã được dùng để điều trị trầm cảm và trong một số trường hợp chúng hiệu quả. Rất nhiều người với trầm cảm rất là cực kỳ (hypersensitive) với nỗi đau, và tất nhiên họ có thể có nhiều thứ xảy ra diễn ra. Họ có thể có cơn đau mãn tính hay chấn thương mãn tính và trầm cảm chính. Vậy nên bạn bắt đầu có một dãy một cụm một sự hợp thành của những thứ mà có thể xảy ra. Vậy nên đó là tất cả những gì tôi muốn nói hôm nay về mặt (khía cạnh) hóa học nằm nền bên dưới trầm cảm hay trầm cảm chính. Có rất nhiều hơn nữa ở đó, nhưng mà tôi nghĩ nếu bạn hiểu hệ thống norepinephrine, và rằng nó liên quan đến một trong những thứ như lethargy (sự đờ đẫn, phờ phẫn, kiệt sức, ít năng lượng), những khuyết hệ thần kinh vận động, như chúng được gọi là, Dopamine và cách nó liên quan làm sao đến động lực và sự thiếu hụt đi động lực và thiếu hụt đi Dopamine và sự trầm cảm, và cả serotonin và mối liên hệ (quan hệ) của nó đến nỗi đau thương, và rằng lượng serotonin thấp có thể dẫn đến sự đau thương tột cùng và nỗi nhục (sự nhục nhã, shame) và lượng serotonin lớn hơn có thể đôi khi tái sinh (khôi phục lại, restore) một cảm giác của wellbeing (sự hạnh phúc, sức khỏe tốt, trạng thái bình an, trạng thái mạnh khỏe) và sự an toàn và cảm thấy tốt về bản thân một người nào đó. Nếu bạn hiểu điều đó và bạn hiểu là nỗi đau thể chất (thể xác) theo một cách nào đó có liên quan trong một số trường hợp, tôi nghĩ bạn sẽ biết nhiều hơn về trầm cảm và mặt (khía cạnh) hóa học nằm nền bên dưới nó hơn rất nhiều người ngoài kia. Và nếu bạn muốn tìm hiểu nhiều thêm, tôi xin (muốn) mời bạn tiếp tục tìm kiếm (tìm hiểu) những cụm từ (từ khỏa) đó nhiều (sâu sắc, kỹ) hơn trên mạng. Và chúng ta chắc chắn sẽ đào sâu vào chúng thêm nhiều hơn nữa (go into them in more depth). Nhưng điều đó thực sự đã dựng nên khung sườn sân khấu cho cái (điểm) mà chúng ta đang hướng đến tiếp theo.
Vậy nên tiếp theo tôi muốn nói về hóc môn và cách chúng liên quan đến trầm cảm như thế nào. Và tôi cũng muốn nói về stress và cách nó có liên quan đến trầm cảm như thế nào, cùng với việc nói về những yếu tố di truyển (genetics) hay là thiên hướng (predispositions) đến sự trầm cảm. Và với những ai trong số các bạn mà đang nghĩ, êy, tôi muốn những công cụ, tôi muốn làm sao để sửa chữa trầm cảm. Tôi hiểu khao khát (mong muốn) của bạn về điều đó. Tôi sẽ chỉ hỏi (xin, yêu cầu) rằng bạn bám trụ với tôi ở đây một chút lâu hơn, không chỉ bạn sẽ học được rất nhiều về cách làm sao mà chứng rối loạn tâm trạng này hoạt động, một số những thứ thú vị hơn về nó, nhưng mà nó còn định vị cho bạn thu nhận được nhiều hơn từ những công cụ mà chúng ta sẽ miêu tả qua (get more out of the tools that we will describe). Bạn luôn có lựa chọn để tua (tiến lên, tiến qua) nhanh hơn, là đương nhiên rồi, nhưng tôi nghĩ là quan trọng để hiểu một số khía cạnh liên quan đến hóc môn và stress của trầm cảm.
Vậy nên hãy nói về hóc môn. 20% số người mà có trầm cảm chính có lượng thấp lượng hóc môn thyroid. Hóc môn thyroid có liên quan đến quá trình (sự) trao đổi chất (metabolism). Nhiều lúc ta nghĩ về thyroid là chỉ liên quan đến, bạn biết đó, có một hệ trao đổi chất nhanh, nhưng thyroid có liên quan đến tất cả các dạng của quá trình (sự) trao đổi chất, bao gồm khả năng của chúng ta để tổng hợp (synthesize) những mô tế bào mới như protein (chất đạm) và sửa chữa (chữa lành) những chấn thương (repair injuries). Tôi đã làm một toàn tập một tập toàn (diện) về thyroid và hóc môn sinh trưởng. Nếu bạn muốn xem qua nó, tất cả những video (thông tin) đó được lưu trữ (archived) ở hubermanlab.com. Nó tất cả đều được đánh dấu thời gian (ND: nên rất dễ (thuận tiện) xem và theo dõi các phần), vv. Bạn có thể tìm thấy nó trên YouTube, Apple, Spotify, tất cả những nơi đó. Nên nếu bạn có hứng thú (tò mò) về hóc môn thyroid và hóc môn sinh trưởng và bạn muốn tìm hiểu sâu hơn về chúng và bạn muốn học xem (tìm hiểu xem) cách nào để điều chỉnh thay đổi mức độ của chúng sử dụng (bằng) những cách tiếp cận khác nhau, hãy xem thử qua những video trên. Nhưng mà (ND: trở về ý chúng ta đang nói lúc ban nãy), 20% số người có trầm cảm chính là thiếu hụt thyroid (hypo thyroidal). Họ không sản xuất (sản sinh) ra đủ lượng thyroid. Và điều đó dẫn đến việc năng lượng thấp, sự trao đổi chất chậm (low metabolism) trong não và cơ thể. Và có một tình trạng (condition) gọi là Hashimoto, cái mà bản chất là lượng sản sinh ra thyroid thấp. Và một lần nữa, tôi không muốn đi vào những công cụ liên quan đến thyroid. Đôi khi một nhà tâm thần học sẽ kê toa thuốc (đặc trị) cho thyroid để tăng lượng sản sinh thyroid trong những người mà trầm cảm, và nó (điều đó) sẽ hiệu quả để làm dịu (giảm nhẹ) những triệu chứng. Nên nó không nhất thiết là có một vấn đề trực tiếp với serotonin, Depomine, và norepinephrine hay lạm dụng chất (ND: ví dụ như thuốc giảm đau, substance abuse / substance based). Đôi khi nó là một vấn đề liên quan đến thyroid. Nên có những tình huống và điều kiện cụ thể mà có thể ảnh hưởng hệ hóc môn thyroid và có thể khiến người ta dễ chịu ảnh hưởng của trầm cảm hơn (more susceptible to depression) hay khiến (làm) một sự trầm cảm đã hiện hữu trước đó rồi còn tệ hơn, trầm trọng hơn. Và đó là những tình huống (điều kiện) như sinh con. Và đó là một điều thường được biết đến (được biết rộng khắp) là những phụ nữ sinh con có thể trải qua (undergo) cái mà gọi là trầm cảm sau khi sinh (postpartum depression), nó thực ra (thực sự) đến từ chữ post parturition depression. Họ sinh con ra, còn gì vui hơn chứ, còn gì mừng sướng hơn việc sinh ra của một đứa trẻ mới khỏe mạnh, và họ sẽ sụp (lapse) vào trong trầm cảm (lapse into depression). Và điều đó (việc đó) được cho là có liên quan đến hóc môn, hoặc là liên quan trực tiếp đến hệ thống hóc môn thyroid hay có thể là hệ hóc môn cortisol cả luôn. Chúng ta sẽ nói về cortisol trong một phút nữa (một chốc lát nữa). Cũng vào đó (cùng lúc đó, cũng vào lúc đó, cùng vào đó, cả vào đó), một số phụ nữ cụ thể trong một số giai đoạn cụ thể trong chu kỳ kinh nguyêt của họ trải qua những triệu chứng mà rất là giống với trầm cảm (được ghi nhận, miêu tả, chẩn đoán) theo kiểu (như trong môi trường) lâm sàng và rất nhiều lần (nhiều khi, đa số lần) được chẩn đoán với trầm cảm lâm sàng phù hợp theo đó. Và đương nhiên là chu kỳ kinh nguyệt có liên quan đến những sự chuyển dịch (dịch chuyển, chuyển đổi) của lượng hóc môn. Có cả, những phụ nữ mãn kinh và hậu mãn kinh (menopausal and post menopausal women) là dễ chịu sử ảnh hưởng hơn của trầm cảm chính (more susceptible to major depression) mặc dù liệu rằng trước đó họ có hay không có trầm cảm chính trước đó (ở giai đoạn sớm hơn) trong cuộc đời của họ. Vậy đây là những thứ ta cần xem xét cẩn thận (be on the lookout for) và chắc chắn hãy nói chuyện với một bác sĩ và có một cuốc thử máu mà hy vọng rằng (hy vọng là) bao gồm đo lường của lượng hóc môn thyroid và cortisol. Tại sao lại là hóc môn cortisol? Nhiều stress hơn có liên quan đến nhiều vòng hơn của trầm cảm chính suốt cả quãng đời sống của chúng ta (more stress is correlated with more bouts of major depression across the lifespan). Bao nhiêu vòng? Hóa ra là khi bạn đi từ việc có một đến hai đến ba, và khi bạn đến mức bốn đến năm vòng của những tập (giai đoạn, chương, episode) rất là thật sự nặng nề, nhiều stress căng thẳng trong đời bạn, đây thường có xu hướng là những giai đoạn stress dài hạn, rủi ro mà bạn gặp trầm cảm chính tăng cao vút lên. Vậy nên dù (liệu) rằng có hay không bạn có một thiên hướng di truyền cho trầm cảm hay không, một trong những thứ tốt nhất mà bạn có thể làm để thử cố gắng và tránh cảm thấy trầm cảm là học cách kiểm soát hệ thống stress của bạn, để không đi từ stress ngắn hạn, điều mà tất cả mọi người đều trải qua, chúng ta luôn có những sự kiện gây stress ngắn hạn (short term stressors) đến stress trung hạn và stress dài hạn, và để không có quá nhiều vòng của stress dài hạn, bởi vì khả năng đó của việc cảm thấy trầm cảm sẽ lên, lên nhiều. Và đây là một thứ mà tôi đã quan sát, nhìn thấy lại và lại nhiều và nhiều lần, không chỉ trong sự nghiệp khoa học của tôi, mà cả trong suốt cuộc sống của tôi. Mọi người ở trong mọi (đủ) kiểu hoàn cảnh (domains), trẻ và lớn tuổi, tôi đã thấy rằng người ta sẽ đi qua (trải qua) một cuộc mối quan hệ rất là nặng nề, một sự chia tay, đôi khi đó là sự ở cùng nhau mà là (gây ra) căng thẳng, đôi khi nó là một trường sau đại học (graduate school) mà có thể gây ra stress (căng thẳng), đôi khi nó là một sự kiện khác. Và rồi một vài tháng sau họ trở nên trầm cảm. Và đó là bởi vì hệ thống stress được liên kết với sự giải phóng của cortisol. Hệ thống cortisol có thể ảnh hưởng đáng kể (dramatically impact) cách mà những neuromodulators khác nhau này, Dopamine, norepinephrine, và serotonin hoạt động. Và có một kiểu này của sự ảnh hưởng độ trễ kéo ra hay kéo dài (latent or longer-lasting impact) trên những hệ thống mà ảnh hưởng đến tâm trạng và wellbeing (sự khỏe mạnh, tình trạng sức khỏe lạnh mạnh). Nên việc học làm sao để kiểm soát stress của bạn thật sự là chìa khóa ở đây. Nếu bạn không trầm cảm hay bạn là một người mà không sụp vào trầm cảm gần đây, hãy giữ lấy (nắm quyền) kiểm soát hệ thống stress của bạn. Và chúng tôi đã làm toàn tập cách làm sao để chinh phục stress, và việc đó bao gồm xử lý (giải quyết với, dealing with) với stress trong ngắn, trung và dài hạn. Và có rất nhiều cách khác nhau để làm điều đó. Một trong những lý do quan trọng hơn để học cách làm sao để chống lại stress để chống lại (đối phó, cân bằng lại, loại bỏ, offset) trầm cảm là rằng có một khuynh hướng (mang yếu tố) di truyền mà một số người mang theo trong người và trở nên, trở thành (cảm thấy) trầm cảm. Có những nghiên cứu hiện này của nhiều, hàng ngàn, hàng ngàn người (cá nhân), chúng được thực hiện chính ở New Zealand, nhưng những nghiên cứu này bây giờ được thực hiện ở những nơi nào đó khác, xem xét nhìn vào rất nhiều chục ngàn cá nhân mà mang theo trong người những bản sao gen cụ thể, cái mà họ gọi là sự đa hình (có thể biến đổi, có thể thay hình đổi dạng, có thể biến đổi hình dạng, polymorphisms), trong cụ thể của một gen gọi là 5HTTLPR, mà là một phương tiện vận chuyển của serotonin (serotonin transporter). Nên đây là một gen mà kiểm soát hay điều khiển (regulate) bao nhiêu lượng serotonin sẽ có trong não của mình. Nếu bạn có gen này, cái đa hình này, nó không nhất thiết có nghĩa là bạn sẽ gặp (cảm thấy) trầm cảm nhưng nó dịch chuyển khá lớn (greatly shift) sự dễ chịu ảnh hưởng (susceptibility) của bạn với sự trầm cảm (susceptibility to depression) dưới những điểu kiện của stress. Nên tôi nhận ra rằng một số người đang lắng nghe podcast, chương trình này và một số bạn đang xem trên YouTube, nên tôi sẽ miêu tả việc này theo một cách mà không cần nhìn vào một biểu đồ nào cả. Cái (điều) mà tôi muốn bạn tưởng tượng ra là một ngọn đồi rất là thấp (thoai thoải) như là một ngọn đồi rất là mềm dịu. Nó chỉ là một độ dốc đặt ở 10-15 độ, ok chưa nè. Cái (điều, hình ảnh) mà chúng ta đang vẽ ra trong não bạn là rằng với mỗi vòng của stress nặng (trầm trọng), và đó có thể là học để hoàn thành một chứng chỉ (finishing a degree), hay sự chia tay một mối quan hệ, hay một người thân trong gia đình bị bệnh, hay sự mất đi của một người thân yêu hay một bé (em) thú cưng, với mỗi vòng của stress, khả năng mà bạn sẽ trải qua trầm cảm chính tăng lên. Tuy nhiên, nếu bạn mang theo trong mình cái gen này, gen HTTLPR, độ dốc của đường cong thoai thoải (ngọn đồi ta đã vẽ hình dung ra trong não) lên càng dốc, dốc hơn, nơi mà nó thực ra giống cả một đường thẳng hơn theo cách mà bạn cần ít vòng stress hơn để sụp vào một sự trầm cảm chính, ok chưa nè. Nên rằng nếu một người thường thường bình thường (typical person) mà không mang gen đa hình này phải trải qua hai hay ba hay bốn hay năm vòng của stress trước khi họ sụp vào một sự trầm cảm, một người nào đó với gen này sẽ dễ chịu ảnh hưởng hơn vào việc sụp vào trong trầm cảm sau chỉ một vòng hay hai vòng của stress tột độ (intense stress), ok chưa nè. Và đó là cách mà những gen này hoạt động. Chúng không định sẵn trước (preordain) hay xác định (determine) rằng bạn sẽ gặp (cảm thấy) trầm cảm. Chúng làm tăng lên khả năng chịu ảnh hưởng. Và rất nhiều gen, rất nhiều thứ liên quan đến sự di truyển (kế thừa, heritability) nói chung, hoạt động theo cách đó. Và chúng ta biết rằng có một thành phần di truyền mạnh mẽ đến sự trầm cảm. Làm sao chúng ta biết được? Ở trong những cặp song sinh concordant monozygotic twins, và chúng là hai đứa song sinh giống hệt nhau (identical twins), và chúng có thể là ở trong một túi sinh học (biological sack) hay hai túi sinh học (two biological sacks) trong khi ở trong tử cung, cái mà gọi là monochorionic hay dichorionic. Thường thương là nó monochorionic, và những cặp song sinh giống hệt nhau, mà trong đó một trong hai người song sinh đó đến và có trầm cảm chính, có một khả năng 50% là đứa song sinh kia cũng sẽ có trầm cảm chính. Nên nó không phải là 100%, nó không phải là 100% được thừa hưởng (di truyền, kế thừa). Nó không phải là 100% di truyển, như bạn có thể nói, nhưng có một thiên hướng (predisposition) cao hơn với sự trầm cảm. Trong khi đó trong fraternal twins (những cặp sinh đôi khác trứng), con số đó giảm xuống, và trong anh chị em (không song sinh), con số đó giảm xuống còn 25%, và trong anh chị em (cùng cha khác mẹ, hay cùng mẹ khác cha, half sibling), con số đó nó chỉ khoảng 10%. Những con số này khác nhau qua từng nghiên cứu này sang nghiên cứu khác, nhưng căn bản là bạn càng có sự liên quan gần gũi với một người mà có trầm cảm chính, thì khả năng cao hơn là bạn có thể có trầm cảm chính. Và vì thế, nếu bạn chưa từng có trầm cảm chính, sẽ có khả năng cao là bạn nên đi từng bước (take steps) để học cách để hạn chế stress, bởi vì stress là yếu tố chính (lớn) mà có thể kích hoạt (kích thích) những giai đoạn trầm cảm này. Nên chúng ta đã đi qua rất nhiều thông tin liên quan đến stress và hóc môn và mặt hóa chất thần kinh (neurochemistry) của trầm cảm. Thực ra (thực sự), tôi nghĩ đây là mức sâu nhất mà chúng ta (tôi) đã vừa từng đi vào mặt sinh học của bất kỳ chủ đề nào trên chương trình podcast này trước khi đi vào những công cụ cụ thể nào. Tôi đề cập là việc học làm sao để khống chế (chế ngự, kiểm soát, hạn chế, mitigate) stress và xử lý stress (giải quyết với, deal with stress), học cách làm sao để đo lường và điều chỉnh lượng hóc môn thyroid của bạn, những điều đó có thể hữu dụng.
Nhưng tiếp theo tôi muốn quẹo qua (xoay qua) những công cụ rất là cụ thể mà người có cả trầm cảm và những người mà có thể dễ cảm thấy gặp (prone to) trầm cảm, và cả những người không có trầm cảm và chỉ đơn giản là muốn duy trì một tâm trạng tốt, người mà muốn duy trì một cảm xúc tích cực (a positive affect) trong sự theo đuổi những thứ trong cuộc sống. Những thứ gì mà bạn có thể làm? Hóa ra có những thứ mà bạn có thể làm và tất cả những mặt sinh học mà nằm nền bên dưới sự hữu dụng (utility) của những thứ đó, ý nghĩa là, những lý do mà những thứ đó có hiệu quả có công hiệu bây giờ thì sẽ nghe hợp lý với bạn (nghe có lý hơn với bạn, make sense to you), bởi vì chúng điều chỉnh những thứ như serotonin và Dopamine, và chúng điều chỉnh những thứ đó qua những con đường dẫn truyền rất là cụ thể. Tôi biết đối với nhiều người học về cơ chế là có vẻ hơi mệt mỏi (hơi đuối sức, grueling), tôi nhận ra rằng chương trình podcast này không nhất thiết là một chương trình mà bạn có thể lắng nghe một cách thụ động (hấp thụ) trong khi làm những việc khác, mặc dù tôi hy vọng là bạn có thể làm điều đó và vẫn thích thú nó (chương trình này) và có thể trích ra những thông tin hữu ích (hữu dụng) cho bạn (extract the information). Tại sao lại là cơ chế, lại học về cơ chế? Cơ chế là quá quan trọng, là chìa khóa quan trọng. Bởi vì cơ chế là một chút kiểu như (một xíu) như việc hiểu một số trong khía cạnh (mặt) hóa học của việc nấu ăn. Nếu bạn đọc một công thức nấu ăn và bạn có thể làm theo một công thức nấu ăn, bạn thường nghe người ta nói, ồ tôi có thể làm theo một công thức nấu ăn. Điều đó có nghĩa là nếu bạn có tất cả những nguyên liệu trong công thức nấu ăn đó, bạn đã đầy đủ, ổn, sẵn sàng rồi. Bạn có khả năng sẽ làm món ăn đó. Bạn có thể làm (nấu) bữa ăn đó. Tuy nhiên, nhưng mà, nếu bạn hiểu một chút về mặt hóa học về tại sao muốn nên được thêm vào (thành phần) lần lượt thứ tự thứ ba (thành phần thứ ba, bỏ vào) và không phải đầu tiên, hay tại sao lửa phải được điều chỉnh ở một thời gian (thời điểm) cụ thể, và rằng khi đó không chỉ việc bạn có thể làm theo một công thức, nhưng nó còn cho bạn sự linh hoạt cho những lúc khi muối không có sẵn (ND: trong nhà, nhà bếp), hay khi bạn muốn điều chỉnh hương vị của một món ăn, hay khi bạn muốn thử một món ăn mới, bạn muốn trở nên thử thách (mang tính thí nghiệm, làm thử hơn, experimental). Nên, vậy nên, khi bạn hiểu cơ chế của nó, nó đặt bạn vào một vị trí rất nhiều của sự quyền năng (quyền lực, tremendous place of power, có thể điểu khiển, điều chỉnh, kiểm soát, tùy chỉnh điều mình muốn) để làm việc với chính hệ thống của bạn. Nên nó không chỉ là ghim vào và chơi luôn (plug and chug, tức là làm như con khỉ bắt chước làm y theo như vậy nhưng không hiểu gì cả về nền tảng cơ chế phía sau), như lấy 12 mg của thứ này, bạn hoặc sẽ cảm thấy tốt hơn hoặc không. Bạn có thể thực sự bắt đầu hiểu làm sao những thuốc kê toa, thuốc bổ trợ (supplements), dinh dưỡng (nutrition), những công cụ hành vi (behavioral tools), làm sao những thứ đó đan dệt vào nhau để hoặc là làm việc (hỗ trợ) cho bạn hay không hỗ trợ (làm việc) cho bạn và mang (đưa) bạn đến những con đường của một tâm trí và cơ thể khỏe mạnh.
Vậy nên hãy nghĩ về việc tại sao bất kỳ một loại công cụ nào sẽ hoạt động (có hiệu quả) để giảm nhẹ trầm cảm? Chúng ta đã nói về cách mà làm sao một số loại thuốc mà có ảnh hưởng đến những hệ thống hóa chất khác nhau này có thể hoạt động (có hiệu quả) và tại sao chúng tạo (gây) ra một số vấn đề mà chúng tạo (gây) ra. Những vấn đề mà được tạo ra chủ yếu (chính) bởi sự thật rằng chúng (những loại thuốc) ảnh hưởng rất nhiều những hệ thống trong não và cơ thể. Nên bạn uống một loại thuốc để tăng lượng serotonin, nhưng cái serotonin đó ngoài ra không chỉ liên quan đến tâm trạng, nhưng đến những thứ liên quan đến ham muốn tình dục (libido) và khẩu vị (appetite). Và rồi bạn bắt đầu phá vỡ (sự cân bằng) của một số hệ thống. Và điều tương tự cũng có thể được nói cho những công cụ hành vi, phải không nè (nào). Rằng bất kỳ công cụ hành vi nào mà điều chỉnh những lượng của một hóa chất cụ thể có thể (ought to) có lẽ là, cung cấp một số sự giảm nhẹ cho một số triệu chứng của trầm cảm chính. Hãy lấy một ví dụ mà tôi đã nói về lúc trước trên chương trình podcast, đó là (nó là), nếu bạn vào tắm vòi sen thật lạnh, bạn tắm nước đá, bạn sẽ sản sinh (giải phóng) ra norepinephrine và epinephrine trong não và cơ thể của bạn. Không có nghi ngờ (câu hỏi) gì về điều đó. Tôi không nghĩ rằng có ai có thể thoát khỏi điều đó. Nó kiểu như là một phản ứng toàn cầu (chung) với việc ở trong nước lạnh. Và, vậy thì nếu một số khía cạnh của trầm cảm là có liên quan đến lượng thấp norepinephrine, vậy liệu việc tắm nước lạnh sẽ làm giảm nhẹ trầm cảm của bạn? Có thể, có lẽ, nó còn có thể thậm chí giảm nhẹ một số khía cạnh cụ thể của chứng (sự) trầm cảm đó. Vậy liệu nó có phải là một cách trị chữa trị hết (lành bệnh, tận gốc)? Điều đó sẽ phụ thuộc vào người cá nhân người đó. Vậy liệu tập thể dục có giúp ích (giúp đỡ) gì không? Nếu bạn ra ngoài chạy bộ, bạn sẽ tăng lên lượng norepinephrine trong cơ thể mình. Nếu bạn thích thú cuộc chạy bộ đó, có khả năng là bạn sẽ tăng lượng Dopamine và có thể (có lẽ) là serotonin trong não và cơ thể bạn cả luôn. Vậy nó có trị tận gốc trầm cảm của bạn? Có rất nhiều nghiên cứu khám phá việc làm sao tập thể dục có thể ảnh hưởng tới trầm cảm. Và thực sự, tập thể dục thường xuyên được biết đến như một (cách, một phương pháp) hành vi (hành động) phòng vệ (đề phòng) trước trầm cảm, nhưng nó cũng giúp làm giảm nhẹ đi một số triệu chứng của trầm cảm. Vậy nên bạn có thể hỏi bản thân, vậy thì tại sao bạn lại cần thuốc làm gì/chi nữa (ND: nếu có cả đống cách để đối phó với trầm cảm như vậy/thế?) Tại sao lại có thuốc kê đơn (kê toa) hay sự cần thiết cho thuốc bổ trợ hay những thứ khác để giảm nhẹ những triệu chứng của trầm cảm. À, và đó là bản chất ma quái (quái quỷ, ác độc, ma quái diabolical) của trầm cảm, mà đó là, nếu người ta đủ xa kéo dài đủ lâu đủ nhiều trong cái quá trình (cái con đường) này, cái mà đôi khi gọi là bệnh, đôi khi gọi là một rối loạn, nhưng trầm cảm chính, thì nhiều khi họ không thể lấy được nguồn năng lượng để thậm chí ngồi dậy và (ND: lôi mình) vô tắm bồn hay tắm vòi sen. Họ không còn có động lực nào để làm việc đó, họ không có một khao khát nào để đi chạy bộ. Nên bạn nói, 'Cố lên, đi mà, bạn sẽ cảm thấy tốt hơn. Tôi biết bạn sẽ cảm thấy tốt hơn, nó sẽ tạo ra những (đủ kiểu) các hóa chất này. Tôi đã nghe được trên chương trình podcast gì đó, podcast của Huberman Lab, hay một podcast khác rằng việc chuyển động (hành động, làm gì đó) làm tạo ra những hiệu quả tốt này' Và họ chỉ không muốn làm việc đó (ND: hay bất cứ việc nào). Và đối với bạn, một người không đang trải nghiệm (trải qua) cảm giác trầm cảm, rằng việc đó (mời gọi, kêu gọi đó) có thể là thứ có vẻ như là một việc (sự) khó chịu nhất (most frustrating) và khó hiểu (confusing) nhất thế giới. Nhưng rất là quan trọng để chúng ta nhấn mạnh, điểm nhấn (làm sáng điểm, highlight) lên một sự thật là những mạch dây này mà có thể truy cập được đối với một số người trong chúng ta (accessible to some of us), những mạch dây cho niềm vui (sự hạnh phúc), cho sự theo đuổi niềm vui sướng, cho tập thể dục, cho việc vào tắm nước lạnh, nếu đó là thứ bạn thích, rằng những mạch dây đó có hiện diện ở tất cả mọi người, nhưng đối với một số người mà đang trải qua trầm cảm chính và thật sự đang ở trong (hố sâu) độ sâu của cảm giác trầm cảm của họ, họ không thể một cách nào đó thực sự truy cập vào những mạch dây đó theo cùng một cách mà những người mà không đang chịu đựng trầm cảm có thể làm. Nên tôi hy vọng lời giải thích đó làm rõ mọi chuyện. Nó không phải đang dựng lên cớ này cớ kia bất kỳ cho họ. Và thực ra, tôi nghĩ những hành vi đó sẽ giúp bắn (nâng đỡ, lực đẩy, jolt) họ ra khỏi một số triệu chứng của trầm cảm (jolt them out of depression), nhưng rằng nó chỉ không có thể truy cập được bởi tất cả mọi người. Vậy nên hãy nói về những thứ người ta có thể làm để có thể xử lý với trầm cảm. Và một lần nữa, bất cứ khi nào bạn thêm vào một hành vi hay một công cụ hay một loại thuốc bổ trợ hay loại đi một hành vi, công cụ, thuốc bổ trợ, thuốc, vv. bạn chắc chắn tuyệt đối nên nói chuyện (hỏi, tư vấn) với bác sĩ (physician) của bạn, đặc biệt nếu bạn là một người mà đang phải xử lý (dealing with) trầm cảm chính.
Tôi muốn tập trung vào hệ thống stress. Và rằng tôi sẽ không nói với bạn hãy ra ngoài để có nắng (tắm nắng, phơi nắng) nắng chiếu vào mắt bạn và có một giấc ngủ ngon mặc dù tôi nghĩ mọi người nên làm điều đó thường xuyên, lý tưởng nhất là mỗi ngày, tôi đã nói về những điều đó (ad nauseam, nhiều nghe đến phát ngán, muốn phát bực rồi) trên chương trình podcast này. Chúng sẽ giúp cho giấc ngủ của bạn, chúng sẽ giúp bạn giảm nhẹ stress (căng thẳng). Tôi nghĩ bạn nên có những công cụ để xử lý (đối phó) với stress trong thời gian thực (ngay lúc nó (bắt đầu) xảy ra) vv. Nhưng hãy nhìn trầm cảm từ một góc độ (góc nhìn) của một hiện tượng sinh học sâu sắc hơn, đó là inflammation (sưng viêm) và hệ miễn dịch. Có nhiều (những) bằng chứng đang được hình thành bây giờ là nhiều dạng của trầm cảm chính, nếu không phải tất cả chúng, có liên quan đến việc sưng viêm quá mức. Và inflammation đóng một vai trò quan trọng trong việc làm lành chữa lành vết thương (wound healing). Nó là một khía cạnh tích cực trong hệ miễn dịch của chúng ta. Khả năng của chúng ta để chống lại (chiến đấu, combat) vết thương, chiến đấu với bệnh tật, vv. nhưng sự inflammation mà diễn biến (đi đến mức) quá đà, quá lố, quá mức, quá mức kiểm soát, hết kiểm soát nổi rồi, loạn rồi (loạn xạ, inflammation gone unchecked), inflammation mà diễn ra quá lâu, hay thuộc biên độ quá cao (high amplitude), có nghĩa là quá nhiều anti-inflammatory hay inflammatory cytokine và những thứ thuộc loại đó trong cơ thể, là xấu. Và có một lượng bằng chứng kha khá hiện nay rằng inflammation có thể dẫn đến hay làm trầm trọng hơn (exacerbate) sự trầm cảm. Và rằng nếu chúng ta muốn kiểm soát sự trầm cảm, hay giới hạn (hạn chế) hay loại bỏ trầm cảm, rằng việc tập trung vào (lên) việc làm giảm inflammation và những con đường có liên quan của nó là một việc thật sự tốt để làm (để bắt đầu). Và tôi nghĩ đây là một việc rất tốt cho mọi người để làm mặc dù liệu rằng có hay không bạn đang chịu đựng sự (cảm giác) trầm cảm hay không.
Và hôm nay chúng ta sẽ nói về chính xác là làm sao có thể xuất hiện qua con đường dẫn inflammation. Nên, trước tiên (đầu tiên), ai (những kẻ nào, yếu tố nào) là những người chơi chính trong việc tạo ra inflammation mãn tính trong não bộ và cơ thể. Chúng là những inflammatory cytokine. Những thứ như IL-6, interleukin-6, những thứ như Tumor Necrosis Alpha, TNF Alpha, những thứ như C reactive protein, phải không nào, đúng chưa nè. Không phải tất cả chúng (những cái này) đều là cytokine. Bạn có interferon và prostoglandin và rất nhiều những thứ này. Nhưng khi chúng ta stress, stress mãn tính, chúng ta bị inflammed, não ta và những phần khác nhau của não ta trở nên inflammed bởi vì một số những phân lớp tế bào (classes of cells), cụ thể là những tế bào glial cell (tế bào thần kinh đệm), những tế bào mà thường được nghĩ đến chỉ là những tế bào hỗ trợ, những tế bào đó và khía cạnh sinh hóa (biochemistry) của chúng và cuộc đối thoại (dialogue) của chúng với những nơ ron của não bộ và cơ thể bắt đầu trở nên phá vỡ (tổn thương). Tôi có thể đã nhắc đến trước đó, tôi không nhớ nữa. Nhưng tôi chắc chắn đã nhắc đến nó trong một chương trình podcast trước rằng adrenaline epinephrin, khi nó được giải phóng trong cơ thể, nó không băng qua (vượt qua) màng ngăn máu-não (hàng rào máu não (blood-brain barrier-BBB) là một lớp tế bào bao phủ các mạch máu trong não và điều chỉnh sự xâm nhập của các phân tử từ máu vào não, Vinmec), nhưng mà có một vài thứ cụ thể mà có thể băng qua BBB khi chúng ta stress, những thứ như F2 prostoglandin, những chất đó băng qua BBB. Và máu ta và não ta, và vì thế não ta và cơ thể ta có thể giao tiếp (truyền thông) bởi vì một số thứ cụ thể có thể băng xuyên qua lớp ngăn (màng ngăn, vách ngăn) này chúng ta gọi là BBB, hay Blood-Brain Barrier. Và rồi chúng ta có một thứ mà gọi là hệ glymphatic, đó là một hệ thống bơm mà liên kết bộ não với lại cơ thể. Đó là liên kết giữa hệ miễn dịch và não bộ.
Và, có một tập hợp những hành động mà ta có thể làm để có thể làm hạn chế sự inflammation. Và điều này đã được cho thấy trong một vài bài nghiên cứu được đồng nghiệp đánh giá qua (peer reviewed studies) bây giờ là có thể giảm sự inflammation và có thể giảm nhẹ một số, và trong một số trường hợp, tất cả những triệu chứng (dấu hiệu) của trầm cảm chính. Một trong những cách tiếp cận đó là làm tăng lên lượng tiếp nạp của ta về cái mà gọi là EPA (Eicosapentaenoic Acid) hay Essential Fatty Acid, những axit béo thiết yếu. Hiện nay có một danh sách dàiii của các bài nghiên cứu trong những journal có chất lượng được đồng nghiệp đánh giá qua (quality peer review journals) cho thấy rằng khi người ta ăn uống (ingest) một lượng (mức) cụ thể của EPA omega-3 axit béo, sự giảm nhẹ khỏi những triệu chứng trầm cảm ngang bằng (sánh ngang với, match) với những thuốc SSRI (thuốc chống trầm cảm). Đó là điều (điều đó) thật tuyệt vời, phải không nào. Rằng những axit béo thiết yếu có thể giảm nhẹ bớt (relieve) những triệu chứng của trầm cảm, công hiệu (tốt, có hiệu quả) ngang bằng với những thuốc chống trầm cảm được kê đơn (kê toa). Và, đây không nhất thiết có nghĩa là bạn đột ngột bỏ chạy khỏi (chạy mất dép, chạy bốc khói, run off) và ngưng uống thuốc trầm cảm nếu bạn được kê toa thuốc đó, xin đừng làm điều đó. Xin hãy nói chuyện tư vấn hỏi bác sĩ của bạn trước. Và tôi nên nhắc đến (đề cập) là một số trong những nghiên cứu giống nhau đã cho thấy rằng sự tăng lên của việc ta hấp thu của những axit béo thiết yếu này, cụ thể là loại EPA (Eicosapentaenoic Acid) của những loại omega-3 (the EPA variety of omega-3s) có thể làm giảm những liều hiệu quả của những thứ như SSRI. Nghĩa là nếu ta được kê đơn (yêu cầu uống) liều 40mg hay 50mg của fluoxetine, rằng một người nào đó có thể vượt qua (làm được, trụ được, qua được, qua ngày được, get by) trên (ở) một liều thấp hơn và từ đó có lẽ sẽ không trải qua nhiều những vấn đề hay tác dụng phụ (như khi dùng ở liều cao) bằng (cách) việc uống hoặc bổ sung thêm EPA. Và bây giờ, mức độ ngưỡng có vẻ như là khoảng một gram, 1000 mg EPA. Nên bạn sẽ đôi khi thấy trên một hộp Krill Oil hay Fish Oil (dầu cá) hay bất kỳ nguồn nào, thậm chí là nguồn thực vật hay những nguồn khác của EPA, là nó là 1000 mg hay 1200 mg. Nhưng cái mà quan trọng để nhìn vào là liệu có hay không có hơn 1000 mg EPA, bởi vì EPA cụ thể là cái mà quan trọng ở đây. Và thật sự trong sự khám phá của những tài liệu (literature) trên những hiệu quả của EPA trên sức khỏe tim mạch, xin phép tôi, những hiệu quả của EPA trên trầm cảm, có những phản ứng thú vị dựa trên liều dùng , đó là những người uống đâu đó loanh quanh từ 400 mg đến 5000 mg EPA đạt được (nhận được) một loạt những lợi ích khác nhau. Và trong một số trường hợp một số tác dụng phụ, chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau. Và nó có vẻ là liều dùng (liều lượng) 1000 mg này là một ngưỡng quan trọng (critical threshold) cho việc có được (nhận được) lợi ích hay có được một số sự giảm nhẹ những triệu chứng trầm cảm. Nhưng những người mà uống 2 gram có vẻ có hoạt động (hiệu quả) tốt hơn và trong bên khu vực sức khỏe tim mạch, ở đó mọi chuyện nó hơi phức tạp một chút. Một số nghiên cứu chỉ đến một hiệu ứng (hiệu quả) rất là tích cực trên sức khỏe tim mạch bằng việc uống liều tăng dần EPA, còn những nghiên cứu khác, không nhiều lắm. Dữ liệu hiện tại chỉ đến một sự thật là với mỗi gram EPA mà một người ăn hay uống vào (ingest), có khoảng một sự cải thiện 9% của sức khỏe tim mạch, sự cải thiện dựa trên liều dùng y chang như vậy trên sức khỏe tâm thần (tâm lý) trong việc chống chọi chiến đấu lại (combat) với trầm cảm không thể thực sự được khẳng định (nói ra ở đây). Tôi sẽ không nói rằng bạn uống càng nhiều (lượng EPA càng tăng), thì bạn sẽ cảm thấy càng tốt hơn, ví dụ vậy (có thể nói là vậy, có thể nói như thế, so to speak). Tôi không nghĩ rằng các dữ liệu hướng đến (chỉ về) việc (nhận định) đó. Tuy nhiên, có vẻ là nó cho thấy rằng nếu bạn uống (dùng) 1 gram, 1000 mg hay 2000 mg EPA, có vẻ có những sự giảm nhẹ đáng kể, cho rất nhiều người, tôi nên nhấn mạnh, không phải tất cả, là rất nhiều người, trong những triệu chứng trầm cảm.
Vậy làm sao cái này (điều này, EPA) có thể hoạt động / có hiệu quả? Hóa ra là những inflammatory cytokine này, chúng ảnh hưởng đến nơ ron và những mạch dây trong não mà có liên quan đến những thứ như serotonin, Dopamine và norepinephrine. Những inflammatory cytokine này hoạt động (act) theo những cách rất là khác nhau, nhưng chúng chủ yếu (chính yếu) hoạt động để ngăn chặn (inhibit) sự giải phóng của serotonin, norepinephrine và Dopamine hay sự tổng hợp của serotonin. norepinephrine và Dopamine. Và tôi sẽ đưa ra cho bạn một ví dụ làm sao EPA có thể ảnh hưởng đến quá trình này theo một hướng (cách) tích cực. Và rằng nó chỉ ta đến (chỉ đến) một công cụ thứ hai, đó là sự tận dụng đúng cách (hiệu quả) của việc tập thể dục (proper utilization of exercise) để đẩy lùi (tắt đi, offset) những hiệu ứng của trầm cảm. Và bây giờ có lẽ bạn đã hiểu tại sao có những lượng mức khỏe mạnh của serotonin là quan trọng cho việc duy trì một tâm trạng tốt (khỏe mạnh). Nó không có trách nhiệm cho tất cả khía cạnh của việc có một tâm trạng khỏe mạnh, còn có cả Dopamine và norepinephrine, nhưng nó là một cái (chất) quan trọng (serotonin). Dopamine, ngoài ra còn gọi là 5HT, bản chất là lấy nguồn (khởi nguồn, sinh nguồn, phát nguồn, derive) từ một tiền chất (precursor) tên gọi là tryptophan. Tryptophan đến được vào trong hệ thống của ta thông qua chế độ dinh dưỡng của ta, ok chưa nè, tryptophan là một loại axit amin (amino acid). Tryptophan được tìm thấy ở gà tây (hay nước Thổ Nhĩ Kỳ, turkey), nó được tìm thấy ở trong tinh bột (carbohydrates), và điều đó nên vì thế gợi (dấy) lên suy nghĩ ý nghĩ (một người có thể hỏi) là hmmm, tôi tự hỏi liệu có phải một trong những lý do mà những người đang trầm cảm có một khẩu vị thật nhiều như thế cho tinh bột (laid/late in foods?) trong thức ăn, là vì họ đang cố gắng có nhiều hơn tryptophan và vì thế nhiều hơn serotonin. Và thực sự đó đúng là tình huống đó. Tryptophan được cuối cùng (rốt cuộc) chuyển hóa thành serotonin. Tuy nhiên, nếu có một lượng quá nhiều inflammation, những inflammatory cytokine này gây ra (khiến cho) tryptophan không thể chuyển hóa nhiều được thành serotonin, nhưng được chuyển hướng (diverted) xuống một con đường dẫn truyền khác. Con đường dẫn truyền bao gồm một thứ gọi là IDO, Indoleamine, cái mà chuyển hóa tryptophan thành kynurenine, ok chưa nè. Kynurenine thực ra hoạt động như một neurotoxin (chất gây hại cho thần kinh, chất độc thần kinh) bằng (qua) cách chuyển hóa thành một thứ gọi là quinolinic acid. Và quinolinic acid là chất mang tính tiền trầm cảm (pro depressive). Vậy nên nếu nó có vẻ như là một con đường dẫn truyền sinh hóa phức tạp, điều mà căn bản đang xảy ra ở đây là chất tryptophan, chất mà thông thường sẽ được chuyển hóa tạo thành serotonin, trong những tình trạng (điều kiện) của inflammation đang được chuyển hướng vào trong (theo) một con đường dẫn truyền neurotoxic (có hại cho thần kinh). Và sự ăn hoặc uống EPA, bởi vì chúng hạn chế những inflammatory cytokine này, những thứ như IL-6, C-reactive protein, vv., có thể khiến cho phần nhiều hơn của những tryptophan mà một người ăn hoặc uống vào hoặc có sẵn trong cơ thể họ được điều hướng (chuyển hướng) đến con đường dẫn truyền serotonergic pathway (Google: serotonergic denoting a nerve ending that releases and is stimulated by serotonin.). Tập thể dục, hóa ra là, cũng có một hiệu quả tích cực trên con đường dẫn truyền tryptophan chuyển hóa thành serotonin. Và cách mà nó (việc tập thể dục) làm việc đó là rất là thú vị. Giờ đây bạn đã biết tryptophan có thể hoặc là được chuyển hóa thành serotonin hay được chuyển hóa thành loại chất gây hại thần kinh này, cái mà là một điều tồi tệ. Tập thể dục, sự kích hoạt của những cơ bắp, thông qua việc sử dụng có nhịp điệu, cụ thể là aerobic exercise (tập thể dục hiếu khí) nhưng ngoài ra có cả resistance training (luyện tập sức bền) đã được cho thấy cho tác dụng, hiệu quả này ở một mức độ nào đó, có xu hướng cô lập (sequester) hay nhét (shuttle) chất kynurenine (chất gây hại thần kinh đó ấy) vào những cơ bắp để nó không thể chuyển hóa thành chất gây hại thần kinh này mà gây ra (mang bản chất) tiền trầm cảm, ok chưa nè. Có rất nhiều bước trong con đường dẫn truyển đó dẫn đến trầm cảm, nhưng bản chất điều này có nghĩa là rằng đạt được đến một ngưỡng mức thu nhận (tiếp nạp, lượng nạp vào) EPA hoặc là bằng việc bổ trợ / bổ sung dầu cá fish oil hay krill oil hay thông qua một nguồn thực vật nếu bạn không thích ăn uống cá hay krill (một động vật giáp xác con như con tôm nhỏ, gọi là con nhuyễn thể), hay cố gắng đạt đến hơn ngưỡng mức 1000 mg EPA bằng cách ăn uống những loại nguồn thực phẩm cụ thể nào đó, bạn chắc chắn có thể có được liều lượng này thông qua thức ăn, bạn không cần nhất thiết phải dùng bổ trợ (thực phẩm chức năng, thuốc bổ trợ), nhưng nó sẽ dễ làm được hơn với thuốc bổ trợ. Rằng việc làm điều đó (bổ trợ thêm EPA) sẽ hạn chế sự inflammation mà chuyển hướng tryptophan vào con đường thành chất gây hại thần kinh này. Và cả tập thể dục cả nữa, tăng lên (augment) sự chuyển hóa của tryptophan thành serotonin bởi vì nó tóm lấy (túm lấy, tóm gọn) cái thứ mà có khả năng (tiềm năng, ND: là kynurenine, nếu bạn nhớ lại) trở thành một chất gây hại thần kinh và cô lập (sequester) nó, kéo nó đi để mà nó thực sự đi ra và gây ra tạo ra những hiệu ứng mang tính tiền trầm cảm của nó. Nên bạn có nhiều bước ở đây. Chúng ta đang miêu tả hai công cụ, tăng lượng EPA và tập thể dục thường xuyên như là một cách để tăng lên lượng serotonin, theo một cách gì đó hơi gián tiếp, phải không nè. Nó là bằng cách hạn chế (ngăn chặn) con đường dẫn truyền xấu (không tốt) này để thúc đẩy (promote) sự hoạt động của con đường tốt. Nhưng từ những dữ liệu mà đã được công bố (xuất bản) trong những journal danh tiếng (chất lượng) được đồng nghiệp đánh giá qua (quality peer review journal), nó được xem có vẻ như là con đường dẫn truyền inflammation này có hoạt động (function) để tăng lên trạng thái (cảm giác) trầm cảm thông qua những con đường dẫn truyền này. Và rằng biết rằng có những bước dựa trên hành vi và những bước dựa trên thuốc bổ trợ, hay nếu bạn muốn hơn, có được (thu nạp vào) EPA từ những loại thức ăn thông thường, từ những cách tiếp cận dinh dưỡng, tôi thấy rằng nó rất là chắc chắn (đảm bảo, củng cố, reassuring) rằng những cơ chế tất cả đều quy tụ (hội tụ, đồng quy lại, converge) lại cùng một con đường chung, serotonin. Điều đó cho tôi sự bình yên (bình thản) trong tâm trí to lớn (nhiều) rằng khi người ta nói, êy, đi ra ngoài và chạy bộ đi, hay bạn nên đi ra ngoài và tập thể dục hay bạn nên uống dầu cá như những người Scandinavia đã từng (vẫn đang uống). Tôi có những thành viên trong gia đình gốc Scandinavia và họ được biết đến, hay tôi nên nói rằng (nói là), họ khá là rộng mở đầu óc về một sự thật rằng trong những tháng mùa đông cụ thể, khi sự (cảm giác) trầm cảm dễ dàng xảy ra (xảy đến) hơn, nhưng trong suốt cả năm, thật sự, họ cố gắng nỗ lực để ăn uống thường xuyên một lượng lớn (cao) EPA, hoặc là qua ăn cá có dầu và da của nó. Bản thân tôi không phải là một người thật sự thích (fan cứng) của việc ăn vào da của cá có dầu. Hoặc là bằng cách bổ sung / bổ trợ thêm cod liver oil dầu gan cá tuyết, hay những loại khác của dầu cá, sardine cá mòi, và những loại như vậy, dầu cá mòi. Có một số những thứ khác ngoài kia mà một ai đó (bạn) có thể thử / dùng. Nên tôi thấy nó rất là chắc chắn (củng cố, reassuring) rằng nó có một con đường dẫn truyền sinh hóa chung mà có thể giải thích tại sao những thứ này không chỉ có hiệu quả, mà còn tại sao chúng nên có hiệu quả. Chúng nên có hiệu quả vì chúng hoạt động theo một cách chung y chang những con đường dẫn truyền sinh hóa giống y như mà những loại thuốc trầm cảm mà được kê toa cho những người trầm cảm cùng hoạt động. Vậy điều này có ý nghĩa gì đối với bạn (cho bạn)? Nếu bạn là một người mà đang chịu đựng trầm cảm chính, một lần nữa, đừng dừng uống thuốc đã được kê toa cho bạn. Bạn nên nói chuyện với bác sĩ của bạn, nhưng nói chuyện với họ cả về EPA và tập thể dục và làm sao những thứ này có thể ảnh hưởng (impinge) lên những con đường dẫn truyền sinh hóa. Nếu bạn là một người mà không đang chịu đựng trầm cảm chính, tôi vẫn nghĩ những con đường dẫn truyền này là rất là quan trọng để tìm hiểu. Và thực ra biết được những con đường này là động lực tiếp thêm để tập thể dục thường xuyên hơn, tôi nghĩ chúng ta đều đã biết là chúng ta nên có được 150-180 phút (tập thể dục) hằng tuần (ND: tức là khoảng 20-25 phút mỗi ngày) của những bài tập zone 2 cardio cho những hiệu quả tim mạch. Zone 2 là theo kiểu cardio nhẹ, không quá nặng (mellowish cardio), mà ở đó bạn có thể trò chuyện (với người tập cùng) nếu bạn muốn nhưng nó hơi khó khăn một tí xíu (một chút), bạn hơi hít hụt thở không khí vào một chút. Và điều đó sẽ hạn chế những triệu chứng giống trầm cảm như vậy. Tôi nghĩ là trong tất cả chúng ta, tôi không nghĩ chúng ta nên nghĩ về trầm cảm là một ngưỡng mức nghiêm ngặt (strict threshold). Tôi là một người mà cá nhân tôi đã lựa chọn để uống 1000 mg EPA mỗi ngày, tôi làm điều đó bằng cách bổ sung (supplementing fish oil) dầu cá. Có những cuộc tranh luận ngoài kia về việc liệu rằng nó có tốt hơn khi uống EPA NDHA trong những tỉ lệ cụ thể (particular ratio), và liệu rằng có hay không DHA có thể ảnh hưởng LDL, cái mà gọi là cholesterol xấu. Đó là việc đang đi sâu vào trong những đám khu rừng rậm (cỏ dại, weeds). Và chúng ta có thể nói về chúng trong một tập phát sóng tương lai. Nhưng cho (đối với) bản thân tôi, tôi nhận thấy một hiệu quả tích cực khá rõ ràng khá lớn khá rõ rệt khá đáng kể (pretty substantial positive effect) bằng việc uống đâu đó khoảng (trong khoảng) 1000 mg đến 2000 mg EPA mỗi ngày. Tôi làm điều (việc) đó qua việc bổ trợ và tôi cũng cố gắng (strive) và ăn một lượng cá, mặc dù thú thật mà nói, tôi chưa bao giờ (hứng thú) thích mùi vị của cá. Đối với những ai trong số các bạn mà thích (muốn) có một ít chi tiết sâu hơn vào những hiệu quả của EPA lên cảm giác (sự) trầm cảm và trong giảm nhẹ những triệu chứng trầm cảm, và nếu bạn muốn đi vào những chi tiết rất ư là nhỏ (nitty gritty) của khía cạnh này (việc này), tôi mời bạn vào examine.com, gõ vào 'depression, EPA' họ liệt kê danh sách và có đường link đến 28 bài nghiên cứu trên (về) hiệu quả của EPA trên trầm cảm chính. Nếu bạn vào PubMed, có rất nhiều, rất nhiều, bài nghiên cứu về chủ đề này hiện nay (bây giờ) mà có thâm niên từ về cả những thập kỷ trước, thật sự vậy. Nếu bạn có hứng thú về những hiệu quả cụ thể của EPA, khi so với DHA, tôi muốn chỉ cho bạn đến một bài nghiên cứu cụ thể có tựa đề là, không quá ngạc nhiên 'EPA, không phải DHA, có vẻ như mang trách nhiệm cho tính hiệu quả của những thuốc bổ trợ chứa axit béo chuỗi dài đa không bão hòa omega 3 cho trầm cảm: bằng chứng từ những phân tích các bài nghiên cứu từ những cuộc thử nghiệm có kiểm soát dạng dạng ngẫu nhiên' (EPA but not DHA appears to be responsible for the efficacy of omega-3 long chain polyunsaturated fatty acid supplementation in depression: evidence evidence from a meta-analysis of randomized controlled trials.). Đây là một bài nghiên cứu thật sự rất tuyệt vời (really wonderful paper). Tác giả là Julian Martins. Nó được xuất bản năm 2009. Chúng tôi sẽ cung cấp đường link đến bài nghiên cứu này trong phần mô tả (link đây ạ các bạn: https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/07315724.2009.10719785). Và bài nghiên cứu đó thực sự là một cái mà ít nhất là đối với tôi, chỉ ra đến rằng tại sao EPA, nói cụ thể trong tình huống này, là cái mà mang (đem) lại hiệu quả, và rằng liệu rằng có hay không DHA là mang vấn đề hay không là một vấn đề tách biệt (riêng biệt) khác, nhưng nó thật sự là EPA mà một người nào đó (một ai đó) muốn đạt được một ngưỡng mức cụ thể nếu mục tiêu của một ai đó là có được sự giảm nhẹ trầm cảm hay để tránh xa trầm cảm (keep depression at bay) bằng việc giữ tâm trạng mình luôn tươi vui (keeping mood elevated), đó là lý do vì sao tôi dùng một liều lớn EPA (ND: hằng ngày, mỗi ngày). Vậy nên, và rồi ta có EPA, ta có tập thể dục bây giờ bạn hiểu tại sao chúng hoạt động để điều chỉnh tâm trạng của ta.
Bây giờ tôi muốn nói về một thứ mà ít ra rằng (ít nhất là) đối với tôi, là hơi gây ngạc nhiên hơi khá ngạc nhiên khi tôi mới được biết đến nó lần đầu tiên cho việc điều trị những rối loạn tâm trạng và đó là creatine. Creatine có một số chức năng rất là quan trọng trong khắp cơ thể. Cho những ai trong số các bạn mà thích (mê, đam mê) tập luyện sức bền (sức cản, sự trở lực, resistance training) và thực ra thực sự là cho những ai trong số các bạn thích cả endurance training luyện tập sức chịu đựng, creatine đã đạt được khá nhiều sự phổ biến (đã được phổ biến) khá nhiều, khá rộng rãi trong vài năm trở lại đây, trong những năm gần đây bởi vì bổ sung bổ trợ với creatine có thể hút nhiều nước vào trong cơ bắp hơn và có thể tăng lên sức mạnh xuất ra (power output) từ các cơ bắp. Vậy nên nó là một cái mà thực chất có hiệu quả (does indeed work). Có những cuộc tranh luận liệu rằng có hay không nó không tốt cho thận khi uống bổ sung creatine dài hạn ở những liều cao. Và tôi mời bạn đi xuống hố thỏ đó (rabbit hole, để tìm hiểu thêm). Tôi nghĩ nhiều người hiện nay chấp nhận ý tưởng rằng, là cho đa số người, không phải tất cả ai cũng vậy, bổ sung creatine liều thấp tầm loanh quanh 1 gram đến 5 gram một ngày có thể có một số hiệu quả (tác dụng) tích cực trên physical performance (sự khả năng hoạt động thể chất). Những người với vấn đề thận, vv. cần phải đặc biệt chú ý nhưng creatine là thú vị cho mục đích đó. Tuy nhiên, còn có một hệ thống gọi là phosphocreatine system trong não bộ và hệ thống phosphocreatine có tất cả liên quan với sự trao đổi (đối thoại, dialogue) giữa nơ ron và những thể loại tế bào khác gọi là, glial cell tế bào thần kinh đệm và glial bao gồm một số những loại tế bào khác nhau, microglia, astrocytes, vv. Nhưng hệ phosphocreatine trong não trước của ta cụ thể là, ở phía trước (phần trước) não ta, đã được cho thấy có liên quan đến sự điều hòa của tâm trạng (regulation of mood) và một số những đường dẫn truyền phần thưởng và cả trong trầm cảm. Và hiện này có một vài bài nghiên cứu, ít nhất là ba, mặc dù chắc là có nhiều hơn trước lúc mà tập phát sóng này được đăng tải lên bởi vì những bài nghiên cứu đó được phát hành ra rất là nhanh ở thời điểm hiện tại. Ít nhất ba bài nghiên cứu có chất lượng chỉ ra vào sự thật rằng bổ sung creatine không chỉ có những hiệu quả tích cực này trên hoạt động thể chất (physical performance) mà ngoài ra còn có thể được dùng như một cách một con đường để tăng lên tâm trạng và để cải thiện những triệu chứng của trầm cảm chính. Điều này đã được thực hiện trong một vài nghiên cứu double blind (mù đôi, cả người thực hiện thí nghiệm và người tham gia không biết chủ đề thực sự của nghiên cứu là gì, chủ đề ẩn giấu để tránh những sự thiên kiến hay định kiến có sẵn), placebo controlled studies (nghiên cứu một nhóm được dùng thuốc thật, còn nhóm kia được kiểm soát control group dùng giả dược placebo). Những nghiên cứu này đã xem xét (nhìn vào) những phụ nữ, vào cả đàn ông, cả vào thiếu niên tuổi teen (10-19 tuổi, adolescent), một số người trong số họ đang dùng thuốc chống trầm cảm SSRI, một số khác thì không. Họ đã làm magnetic resonance spectroscopy (giống MRI, chụp cộng hưởng từ). Vậy nên spectroscopy là một cách mà bạn có thể nhìn vào nồng độ của những hợp chất cụ thể trong não trong thời gian thực (ngay lúc đó) trong con người, nó có thể được dùng cho những thứ khác nữa, tất nhiên rồi. Và căn bản là những gì được quan sát thấy là sự tăng lên trong hoạt động của hệ phosphocreatine trong não trước có thể có lợi ích hay ít nhất là có liên quan đến những cải thiện trong tâm trạng. Vậy nên hãy nói qua một chút về cái gì có liên quan đến việc dùng hay bổ sung creatien để cải thiện tâm trạng và có thể (có lẽ) thậm chí là cả điều trị trầm cảm. Đầu tiên là, khi tôi nói về (nói đến) creatine, tôi đang nói về creatine monohydrate, có một số những dạng khác nhau của creatine. Ở đây, tôi đang nói về creatine monohydrate. The American Journal of Psychiatry năm 2012, công bố đăng một bài nghiên cứu, mà là một cuộc thử nghiệm randomized double blind placebo controlled trial của creatine monohydrate uống theo đường miệng. Và điều mà nghiên cứu này tìm ra rằng nó có thể tăng lên hay cải thiện một sự phản hồi đến một SSRI, cụ thể là, trong những người phụ nữ mà có rối loạn trầm cảm chính. Vậy nên như EPA, bổ sung creatine có vẻ như hoặc là giảm nhẹ xuống liều cần thiết của SSRI mà được yêu cầu để điều trị trầm cảm hoặc có thể cải thiện mức độ hiệu quả của một liều cụ thể được cho của thuốc SSRI. Tuy nhiên, có những nghiên cứu khác mà đã xem xét trực tiếp vào sự bổ sung creatine khi không dùng SSRI (in the absence of) và chúng cũng rất là thú vị cả luôn. Có một bài đánh giá tuyệt vời và rất là toàn diện về creatine cho việc điều trị trầm cảm chính mà bao gồm những bảng đẹp tuyệt vời của tất cả những chủ thể tham gia và liều dùng, vv. Tôi sẽ không đọc ra tất cả mọi dòng và mọi cột trong bài đánh giá đó, nhưng chúng tôi sẽ cung cấp đường link cho bài đánh giá đó cả luôn (link đây ạ các bạn: https://www.mdpi.com/2218-273X/9/9/406). Một trong những thứ mà thực sự gây ấn tượng về danh sách những bài nghiên cứu mà họ bao gồm trong đó là đa số trong các nghiên cứu đó họ dùng những liều lượng creatine mà khá là hợp lý với đa số người, đâu đó từ 3-5 gram, đôi khi nhiều đến 10 gram một ngày của creatine. Nhiều trong số những nghiên cứu này cũng được cho thấy rằng làm tăng lên hoạt động của hệ phosphocreatine trong não trước, và một số cho thấy mối liên hệ (quan hệ) giữa hệ phosphocreatine đó và một thể loại điểm tiếp nhận (particular category of receptors) trong não gọi là điểm tiếp nhận NMDA, N-methyl D-aspartate. Điểm tiếp nhận NMDA là một trong những thứ đầu tiên mà mỗi nhà khoa học thần kinh đang nẩy mầm (mới non, mới đang đâm chồi nảy lộc) học về, bởi vì nó là một điểm tiếp nhận mà có những đặc điểm điện từ và hóa học (electrical and chemical properties) mà làm cho nó là một cánh cổng quan trọng (a critical gate) cho cái mà gọi là sự khả biến thần kinh (neuroplasticity). Nên nó không phải là một điểm tiếp nhận mà được kích hoạt ở trong não, thông thường là chỉ cho sự hoạt động của não bộ (functioning of the brain) hằng ngày thông thường mỗi ngày (ngày qua ngày). Nó là một điểm tiếp nhận khi mà những mạch dây sắp thay đổi (sắp có sự diễn biến chuyển đổi qua vào), khi mà chúng được cảm hứng là thay đổi bởi một kích thích gì rất là mạnh mẽ, nghĩa là một trải nghiệm nào đó, hoặc trong một số trường hợp một loại thuốc, hay trong một số trường hợp một thứ gì đó khác. Nhưng điểm tiếp nhận NMDA là một kiểu loại như một điểm nối chính (a key node) để chuyển đổi dịch chuyển trong mạch dây thần kinh não bộ. Và vì thế trong khi những chi tiết không hoàn toàn rõ ràng, nó có vẻ như là sự bổ sung thêm chất creatine dẫn đến sự tăng lên trong hệ phosphocreatine trong não trước và rằng những sự tăng lên hoạt động của hệ thống phosphocreatine ở não trước có liên quan đến những thay đổi trong cách mà những điểm tiếp nhận NMDA hoạt động và có thể dẫn đến một số của sự khả biến (plasticity), sự thay đổi trong hệ mạch dây thần kinh nằm nền bên dưới sự chuyển dịch từ tâm trạng và cảm xúc tiêu cực (negative mood and affect) đến tâm trạng tích cực. Và rằng bây giờ, có rất nhiều chỗ hỏng (gaps). Bạn biết đó, có rất nhiều những hộp hay thùng nhỏ trông sơ đồ (diagram) mà tôi vừa miêu tả ra cho bạn. Và một số trong số đó vẫn còn thực sự là những hộp đen bí ẩn (bí mật), như chúng ta nói, ý nghĩa là, chúng ta không thực sự biết cái gì ở trong chúng nữa (điều gì ẩn chứa ở trong chúng nữa). Và nhiều dữ liệu về mặt cơ chế hơn sẽ tiếp tục được khám phá ra sắp đến đây đến với chúng ta. Tuy nhiên, nếu bạn nhìn lướt qua những dữ liệu trong bài đánh giá này hay khi tôi nhìn qua những dữ liệu trong bài đánh giá này, những gì / điều mà bạn sẽ tìm thấy là chúng là những hiệu quả tích cực khá ấn tượng của creatine. Và một trong những hiệu quả thú vị hơn là rằng creatine đã thực sự được cho thấy rằng sẽ tăng sự mania (điên loạn) trong những ai đã điên loạn rồi. Và điều đó khá thú vị. Chúng ta đang không nói về trầm cảm lưỡng cực hôm nay nhưng nó có vẻ là creatine tăng lên mức độ của sự kích hoạt và kiểu như là tâm trạng nói chung. Và tôi có thể thấy vì sao điều đó có thể là một vấn đề cho một người (một ai đó) mà đang ở trong giai đoạn điên loạn, nhưng thật sự nó có thể có lợi ích cho một ai đó (một người) mà có cảm xúc khá thấp (trầm) và có trầm cảm chính. Vậy nên bạn có nên bổ sung thêm với creatine? Như mọi khi, hãy tham khảo tư vấn trước với bác sĩ của bạn. Nhưng nếu bạn là một người mà đang nghĩ về những thứ như mà bạn có thể làm và những thứ mà bạn có thể dùng để tăng lên tâm trạng của mình, giữ tránh xa trầm cảm, thậm chí có thể ủng hộ những phương thức, cách điều trị khác cho trầm cảm chính, hệ creatine có vẻ là một phương pháp có logic. Có ít nhất những bài nghiên cứu khá mạnh (khá chắc chắn) và một số lượng lớn trong số chúng để xem xét về, để xác định liệu rằng có hay không nó phù hợp với bạn. Bản thân tôi, cá nhân tôi uống 5 gram creatine vì những lý do khác. Tôi uống nó vì hoạt động thể chất (physical performance), những tác dụng hiệu ứng tăng cường, nhưng nó cũng kiểu như khá là tốt (ổn, ok) khi nghĩ rằng có lẽ là nó cũng có thể giúp tôi tăng tâm trạng của tôi. Đó là lý do mà tôi đã lựa chọn nó cho tôi nằm trong khoảng không gian an toàn cho tôi trong cuộc sống. Tôi không biết liệu điều đó (nó) có phù hợp cho tất cả mọi người, nhưng tôi thấy nó rất thú vị. Và một lần nữa, tôi thấy nó thú vị cụ thể ở chỗ bởi vì có một con đường dẫn sinh hóa có logic để ủng hộ đằng sau sự khám phá ra rằng nó tăng cường lên tâm trạng và có thể làm trễ hóa đẩy lùi (offset) những hiệu ứng của trầm cảm chính trong một số trường hợp, hay có thể làm tăng lên (cải thiện) hiệu quả của những thuốc chống trầm cảm trong nhiều trường hợp. Khi tôi thấy cơ chế và tôi thấy sự hiệu quả, và cơ chế và tính (sự) hiệu quả trùng khớp (khớp nối) với khá nhiều những cơ chế giống y chang như những cái có liên quan trong thuốc kê toa, nó cho tôi sự đảm bảo khá chắc chắn (great assurance) rằng điều này nó không chỉ là một loại kiểu như con đường dẫn bí ẩn huyền bí hay một hợp chất bí hiểm (bí ẩn, huyền bí) theo đó mà creatine có thể đang hoạt động theo. Vậy nên chúng ta bây giờ đã kiểu như cụm lại toàn thể EPA, tập thể dục, và mối liên hệ (quan hệ) giữa chúng và inflammation, creatine và mối quan hệ của nó đến hoạt động não trước, và hệ thống phosphocreatine, và điểm tiếp nhận NMDA này. Và như các bạn sẽ thấy trong vài phút tiếp theo, điểm tiếp nhận NMDA đó hóa ra lại là tối quan trọng (vitally important) và thực ra là một trong những mấu nối (điểm nối, one of the main nodes) chính của hoạt động (action) cho một số trong số những phương thức trị liệu mới và khá hào hứng (novel and exciting therapeutics) mà đang được khám phá ra trong các phòng khám tâm thần học hiện nay.
Vậy nên hãy nói thêm một chút về điểm tiếp nhận NMDA này và làm sao nó liên quan đến một số trong những hợp chất trị liệu đang thử nghiệm và mới cho sự điều trị của trầm cảm chính. Và những hợp chất mà chúng ta sắp sửa bàn về, nói về đây, bạn có thể đã nghe nói đến qua rồi, một là ketamine, cái mà đang nhận được sự hứng thú tăng dần (đang nhận được nhiều sự hứng thú, chú ý hơn) trong các phòng khám tâm thần học và trong những nghiên cứu thử nghiệm và lâm sàng khác nhau. Và hợp chất còn lại là PCP. Cả hai ketamine và PCP được biết đến là các loại thuốc (dễ gây) lạm dụng (drugs of abuse). Trong suốt nhiều năm, người ta đã lạm dụng những loại thuốc này, được biết đến với tên gọi đường phố special K (cái K đặc biệt, ketamine) vv. Và chúng tạo ra những trạng thái mê man tách ly (dissociative anesthetic states). Nên những trạng thái tách ly mà trong đó người ta không cảm thấy gần gũi gắn lưới (closely meshed) với những cảm xúc của họ và những cảm quan (nhận thức, perceptions) của họ. Nó là một trạng thái khá lạ thường, tôi nghe nói. Và nó là một trạng thái lạ thường mà những người bác sĩ (clinicians) đang vận dụng đang đòn bẩy cho sự điều trị của trầm cảm. Và tôi sẽ nói vì sao lại như vậy, nhưng hãy nói một chút về điểm tiếp nhận NMDA này và tại sao ketamine và PCP có thể có hiệu quả (hoạt động) cho điều trị trầm cảm hay làm sao cách làm sao mà nó thậm chí có thể có hiệu quả. Tôi muốn nói rất trực tiếp (thằng thắn) là đây là một vùng, lĩnh vực mà còn cần rất nhiều dữ liệu. Tuy nhiên, có những bài nghiên cứu xuất sắc, từ những nhóm nghiên cứu thật sự rất tuyệt vời. Một trong những bài nghiên cứu đó là một bài được xuất bản ở trong Journal Nature năm ngoái, 2020. (ND: Podcast được phát sóng năm 2021). Tác giả đầu tiên là Vesuna, Sam Vesuna, và tác giả cuối cùng và là người dẫn đầu cuộc nghiên cứu này là TS Karl Deisseroth, người đã từng là một vị khách mời trên chương trình Huberman Lab podcast của chúng ta một vài tháng trước. Anh ấy là chuyên gia tầm cỡ thế giới trong khoa học thần kinh, anh ấy là một nhà tâm thần học. Và bài nghiên cứu này từ nhóm Sam Vesuna và Karl và những người cộng sự (đồng nghiệp) khám phá (nghiên cứu) cách làm sao những trạng thái tách ly này xuất hiện. Và họ xem xét khía cạnh này ở cả trên động vật và con người và tìm ra rằng về mặt bản chất có một cơ chế chung mà ở đó một lớp cụ thể của vỏ não (a particular layer of cortex), não bạn có một lớp mô bên ngoài này (outer shelll of tissue) mà gọi là neocortex mà ở đó những cảm nhận (perceptions) của chúng ta nằm trong đó, nó là nơi những liên tưởng của chúng ta nằm ở đó, đó là một khu vực rất quan trọng cho việc xử lý cách ra quyết định và kế hoạch, vv. Nó, theo đúng nghĩa, là những chồng (chất) của các tế bào (stacks of cells) và một trong những lớp đó trong chồng tế bào đó là layer five lớp năm. Và những nơ ron lớp năm trong cụ thể là đi vào một nhịp điệu cụ thể của hoạt động điện (particular rhythm of electrical activity), nhịp điệu 1-3 Hz này sau khi chuột hay con người được cho dùng (administered) ketamine hay PCP. Có một sự kích hoạt của một vùng cụ thể của não bộ. Vùng retro splenium cortex, như nó được gọi. Và trạng thái tách ly mà xuất hiện là một trạng thái khá thú vị. Và trong trường hợp tình huống lâm sàng, những điều được miêu tả cho ketamine và những thứ giống như vậy rằng những người mà trầm cảm sẽ dùng ketamine, sẽ trải nghiệm qua một kiểu như là tách biệt tách ly khỏi những sự đau thương và những cảm xúc của họ. Và rằng có khả năng là có sự khả biến, có những biến chuyển trong hệ mạch dây thần kinh theo đó mà những cảm xúc của họ không đè nặng lên họ quá nhiều (quá nặng) nữa. Tôi đang dùng ngôn ngữ rất là lỏng lẽo ở đây, nhưng rằng họ không cảm thấy bị ghi đè lên quá nhiều và nặng nề bởi những cảm xúc của họ (over written or burdened by their own emotions) như họ đã từng trước khi buổi trị liệu ketamine. Bây giờ, không có đời nào, trong hình thức hay thể dạng nào tôi đang gợi ý rằng mọi người chạy ra và uống dùng ketamine để điều trị trầm cảm của họ. Những loại thuốc này còn khá là trong quá trình thử nghiệm, mặc dù chúng đã được duyệt qua trong một số trường hợp (ngữ cảnh) ít ra rằng là ở trong nước Mỹ, theo sự kê toa kê đơn cho cách điều trị trầm cảm. Điều thú vị với tôi là những trạng thái tách ly này nghe có vẻ, ít ra là từ lúc ban đầu, từ ngay khi ban đầu, là kiểu như là một sự tách biệt (tách ly, separateness) khỏi mọi thứ xung quanh. Nghe nó có vẻ hơi giống như trầm cảm chính bản thân nó. Nó kiểu giống như anhedonia (sự mất hứng thú với các thứ trong cuộc sống) và một sự mất đi khả năng để trải nghiệm, cảm nghiệm niềm vui. Và rồi một người uống dùng một liều gây mê thoát ly (dissociative anesthetic) và đôi khi cũng có thể có được sự giảm nhẹ bằng cách cách ra thậm chí xa hơn khỏi một trải nghiệm. Với tôi, điều đó nghe không có nghĩa lý cho lắm nhưng điều đó chỉ nói về một sự thật là rằng những thuốc này và những điểm tiếp nhận này và những con đường dẫn này hoạt động qua những phương thức rất là bí ẩn (very cryptic means). Và tôi thật sự không hiểu tất cả những con đường dẫn truyền trong não bộ mà có liên quan đến động lực và tâm trạng và vv. Và kết quả của những cuộc thử nghiệm ketamine này nhìn rất là hứa hẹn. Trong thực tế, có một số thử nghiệm mà cho thấy rằng một số lượng kha khá người mà uống dùng ketamine trong một môi trường (hoàn cảnh) trị liệu hợp pháp với một nhà tâm thần học (psychiatrist) dẫn dắt hướng dẫn trải nghiệm này có thể có được sự giảm nhẹ khỏi những triệu chứng của họ, mà không cần rất nhiều, rất nhiều lượt đợt điều trị với thuốc đó. Chỉ là bao nhiêu đợt lượt điều trị sẽ thay đổi (phụ thuộc) cá nhân qua cá nhân (theo từng cá nhân) nhưng đây không có giống như người ta phải uống cái này hoài mãi mãi (liên tục). Đây thực sự là một nỗ lực để thâm nhập sâu hơn vào trong điểm tiếp nhận NMDA này mà có liên quan đến sự khả biến thần kinh. Cả hai ketamine và PCP hoạt động như là tác nhân đối kháng (ức chế, antagonist), có nghĩa là chúng ngăn lại điểm tiếp nhận NMDA. Chúng thực hiện, làm nó qua một vài những phương pháp khác nhau, không đối kháng và đối kháng (non-competitive and competitive for you), thông tin dành cho những bạn nhà hóa học và những nhà dược học (chemists and pharmacologists) ngoài kia đang nghe chương trình này. Bạn có thể tìm kiếm nó nếu bạn thích. Nhưng điều gì vì thế còn ngạc nhiên hơn rằng mỗi người nhà khoa học học được biết rằng sự kích hoạt của điểm tiếp nhận NMDA, không phải là sự ức chế (antagonism) hay ngăn chặn của điểm tiếp nhận NMDA dẫn đến thay đổi trong hệ mạch dây thần kinh trong (theo) những cách rất sâu sắc. Thực sự, trong thí (thử) nghiệm, và tôi đã làm những thí nghiệm này chính bản thân tôi, nếu bạn muốn hạn chế sự khả biến, bạn muốn ngăn cản một trải nghiệm khỏi việc tái định hình (reshaping) lại hệ mạch dây thần kinh, bạn dùng một chất ngăn cản điểm tiếp nhận NMDA. Tôi đã làm điều đó rất nhiều suốt quá trình của sự nghiệp khoa học thần kinh thử nghiệm của tôi, không phải với bản thân tôi, rõ ràng rồi, nhưng trong quá trính làm (thực hiện) những thí nghiệm. Vậy nên nó vẫn hơi còn một chút bí ẩn đối với tôi là rằng làm sao điều này (cái) này có thể hoạt động. Một số thứ, cái. Một là sự kích hoạt của lớp năm (layer five) này khá là thú vị. Chúng ta sẽ quay trở về (trở lại) với lớp năm khi chúng ta nói về một cách điều trị khác cho trầm cảm, đó là psilocybin, hay còn gọi là nấm thần kỳ (magic mushroom) và hiệu ứng hiệu quả của psilocybin lên (trên) nơ ron lớp năm (layer five neurons) trong vỏ não. Vậy nên có một nền chủ đề chung hiện lên ở đây (a common theme emerging here), dó là hoạt động lớp năm trong vỏ não có thể là quan trọng cho việc nối dây lại não theo những cách cụ thể nào đó mà có thể dẫn đến sự phục hồi hay sự giảm nhẹ của một số triệu chứng của trầm cảm chính. Vậy nên nếu điều này nghe có vẻ hơi mơ hồ đối với bạn, bởi vì điều này thật sự (thực sự) là còn đang thực sự trong quá trình thử nghiệm và còn mới mẻ, và còn khá là nhiều trên khía cạnh (rìa) khứa (đi trước sự hiểu biết hiện tại, cutting edge: https://www.studytienganh.vn/news/2120/andquotcutting-edgeandquot-nghia-la-gi-dinh-nghia-vi-du-trong-tieng-anh) của những gì đang diễn ra hiện nay. Chúng ta không có tất cả những đáp án (câu trả lời). Vậy nên nếu như nó nghe như tôi đang di chuyển đi qua khá chậm nội dung (chủ đề) này, tôi đang rất là cẩn thận về những gì tôi nói, bạn có cảm nhận (suy nghĩ) đúng rồi đó. Những an-ten cảm nhận của bạn khá chính xác trong trường hợp này. Tôi không bao giờ muốn bước lỡ và nói một điều gì đó mà không đúng (không chính xác, không thật sự chuẩn xác), nhưng đó đặc biệt là trường hợp này khi chúng ta đang nói về những liệu pháp và thuốc (therapies and drugs) đang trong quá trình thử nghiệm, những cái mà trước đây được dùng như những liều thuốc lạm dụng (drugs of abuse) mà bây giờ được dùng như là những loại thuốc cho quá trình điều trị trị liệu trong phòng khám (clinic). Có một bài nghiên cứu rất là thú vị. Nó được xuất bản trong journal Science năm 2019. Nên đây là những nghiên cứu rất mới, rất gần đây. Tác giả cuối cùng trên bài này là Liston. Tiêu đề (tựa đề) của bài nghiên cứu là 'Sustained rescue of prefrontal circuit dysfunction by antidepressant-induced spine formation' Và ở đây khi chúng ta nghe đến spine, chúng ta đang không nói về spine như ở trong hệ xương sống (vertebrae) chạy dọc xuống cột sống (spinal column) của bạn, chúng ta đang nói về những spines mà là những cái gai nhỏ, điểm nhọn lên nhô lên nhỏ trên nơ ron. Nơ ron không có bằng phẳng phẳng lì (mượt mà) theo bất cứ cách nào (by any stretch). Nếu bạn phóng to vào một nơ ron, nếu bạn có đến phòng thí nghiệm của tôi và nhìn vào kính hiển vi nhìn một nơ ron và phóng to vào nó, bạn sẽ thấy rằng một số nơ ron là khá mượt mà nhưng đa số các nơ ron có những điểm nhô lên nho nhỏ này. Và những điểm nhô nhô lên nhỏ này được gọi là spine (trong ngữ cảnh này, hoàn cảnh này). Và những điểm nhấp nhô (mang tính) spiny đó là những tụ điểm (vị trí, địa điểm) nhỏ mà nơ ron có thể vươn ra và hình thành và nhận được những xi náp (synapse) mới từ những nơ ron cạnh bên (kể cạnh). Nên nó (những điểm nhô nhô nhỏ) tăng diện tích bề mặt của một nơ ron và cho phép những kết nối mới được hình thành. Vậy nên spine information (thông tin điểm nhấp nhô) là đồng nghĩa (cùng nghĩa) với neuroplasticity (sự khả biến thần kinh), cái mà cũng đồng nghĩa với những thay đổi trong chức năng mạch dây não (circuit function), cái mà cũng đồng nghĩa với việc những thay đổi trong những cách mà chúng ta suy nghĩ (think), chúng ta cảm nhận (feel), và chúng ta hành xử (behave). Và điều được cho thấy trong bài nghiên cứu thật sự rất thú vị. Điều mà họ cho thấy là ketamine có thể làm giảm nhẹ những triệu chứng của sự trầm cảm hầu như ngay lập tức (rất là nhanh, rapidly) bằng cách thay đổi hay tăng lên trong trường hợp này, những điểm nhấp nhô trên những nơ ron trong vùng vỏ não trước trán (prefrontal cortex). Và nếu từ đó prefrontal gợi lại cho bạn nhớ điều gì đó, và rằng bây giờ bạn nhớ là hệ phosphocreatine, việc ăn hoặc uống creatine monohydreate và vùng não trước, sự kích hoạt của vùng não trước có liên quan đến, theo một cách này hay cách khác cách nọ, liên quan đến sự giảm nhẹ hay cải thiện các triệu chứng của trầm cảm chính. Nên chúng ta đang bắt đầu quy tụ chung một bức tranh ở đây mà những loại thuốc này ketamine, PCP được dùng trong một hoàn cảnh (môi trường) trị liệu (therapeutic setting) có thể tăng lên sự khả biến thần kinh (neuroplasticity). Theo đúng nghĩa, sự thay đổi trong những mạch dây thần kinh trong não trước theo (bằng) một cách nào đó qua những trạng thái thoát ly (tách ly, dissociative states). Và tôi không muốn speculate (đi vào đoán, phỏng đoán) quá nhiều vào việc làm sao điều đó (sự khả biến thần kinh) lại xảy ra, nhưng một trong những thứ mà là cái nền lớn và lặp lại nhiều lần (a resounding and repeating theme) của trầm cảm chính, là khi bạn nói chuyện với một người mà có trầm cảm chính, đó thật sự là một sự kéo xuống tâm trạng thấp (it is a real downer). Và tôi không đang kiểu như đang hạ thấp (disparaging) những người/ai như vậy. Nhưng nếu bạn đã bao giờ (từng) có một cuộc nói chuyện với một ai đó mà đang trầm cảm, họ luôn nói về họ mệt (kiệt sức) như thế nào, hay trong những trường hợp rất trầm trọng, họ không có phản hồi gì cả, họ chỉ nhìn vào bạn với sự trống rỗng (stare at you blankly), hay họ gục đi ngủ, ý tôi là họ thực sự đang cảm thấy (trong tình trạng) trầm cảm. Hệ thống của họ được giảm thấp xuống về mặt trạng thái kích hoạt. Nên tôi nghĩ nó là một điều thú vị là rằng sự áp dụng các liều thuốc mà cho phép người ta thoát ra khỏi trạng thái đó, cái trạng thái mà không quan tâm hay đang ở trong sự không hứng thú hay không sãn lòng, không sẵn sàng làm một việc gì đó (bất cứ việc gì đó), là thực sự một trong những con đường đến sự điều trị (trị liệu). Nó không phải là luôn luôn (lúc nào cũng) chỉ là việc khiến cho người ta vui vẻ (tràn đầy sức sống, tinh thần cao, peppy) và phấn khích và vui vẻ. Ngoài ra còn có vẻ có sự yêu cầu để cho họ cách ly (khoảng cách, giãn cách ra) khỏi nỗi đau thương của chính họ (their own grief). Và điều này mang (đem) chúng ta trở lại với một thứ mà chúng ta đã nói về hồi lúc mới đầu của tập phát sóng này, cái mà là một đặc điểm cụ thể của anti-self confabulation, rằng mọi thứ mà xảy ra là sự phản chiếu mà rằng tôi nên nói là cho (riêng) đối với người đang trầm cảm, rằng mọi thứ mà xảy ra là một sự phản chiếu của cuộc đời này tồi tệ như thế nào và những trải nghiệm của họ chỉ chỉ vào sự thật là không có điều gì đang diễn ra tốt lên (theo chiều hướng tốt lên, tiến triển). Đây là một ngôn ngữ chung của trầm cảm. Nếu nghe nó có vẻ nặng nề khi nghe tôi nói về điều đó, nó thật sự là điều nặng nề. Và đó là cái như thế này (nó là sẽ như thế này) khi nghe những thứ như vậy, nó thậm chí còn nặng nề hơn, đương nhiên là, cho một ai đó đang trải qua điều này. Và những niềm tin đó, những mô thức (pattern) của nỗi đau thương, của cảm giác tội lỗi, của sự mất đi hứng thú trong cuộc sống (sự chán đời), và sự tự dựng chuyện lên chống đối bản thân mang tính điên rồ (delusional anti-self confabulation), đó là những thứ mà cuối cùng, rốt cục, nếu chúng trở nên quá nặng quá trầm trọng, bắt đầu biến đổi thành những thứ như self harm mutilation (sự tự làm hại, làm tổn thương bản thân), và trong những hoàn cảnh trường hợp bi ai nhất (the most tragic cases), chắc chắn là (đương nhiên theo lẽ đương nhiên), tự vận. Nên tôi nghĩ chúng ta có thể nhìn vào những cách điều trị này như là ketamine và PCP, nhưng cụ thể là ketamine và sự áp dụng sử dụng của nó trong môi trường y học lâm sàng phòng khám (clinic), như là những cách cho người ta để tạo khoảng cách (giữ khoảng cách, tránh xa được khỏi) cảm xúc cảm giác tiêu cực mà họ cảm thấy không chỉ ở bên trong họ hay đang làm xâm chiếm choáng ngợp họ, nhưng mà cả cho một người mà đang trầm cảm nặng nghiêm trọng (severely depressed), họ cảm thấy nó chính là họ (ND: tức là những cảm xúc đó, những câu chuyện sự phản chiếu lại đó chính là họ). Và chúng ta nghe điều này có khi, chúng ta không phải là những cảm xúc của ta. Bạn biết đó, đó là một câu nói (câu khẳng định) mà tôi luôn bị thử thách với (That's a statement I've always been a little bit challenged by). Ý tôi là, đúng thực là, những cảm xúc không phải là con người của chúng ta. Chúng là những trạng thái mà chúng ta đi vào và đi ra, cả bao gồm cả niềm hạnh phúc và nỗi buồn, nhưng chúng rất là nhiều (là phần nhiều) một phần của chúng ta khi ta trải nghiệm qua chúng. Chúng ta không trải nghiệm qua chúng như kề cạnh bên chúng ta hay phía đằng sau chúng ta hay cách phía bên kia phòng so với ta. Chúng ta trải nghiệm qua nó như là những cảm xúc của ta. Chúng rất là một phần và một gói (một thể, part and parcel with our experience) với trải nghiệm của ta về bản thân mà một câu nói như chúng ta không phải là cảm xúc của ta là một câu nói khá là khó nuốt (khá là khó để cho tiêu), đặc biệt là cho người đang trầm cảm. Và vậy nên tôi nghĩ rằng nghĩ là điểm tiếp nhận NMDA và dung khả của nó (khả năng, capacity) để tạo ra sự khả biến thần kinh, những thay đổi trong mạch dây, sự thật là PCP và ketamine đang đều (cả hai) cho thấy sự kích hoạt của những mạch dây thần kinh thông qua cách đè ép (suppressing) hoạt động của điểm tiếp nhận NMDA và một số trong những kết quả trị liệu tích cực và đầy hào hứng mà đang được xuất ra từ khía cạnh này, thực sự chỉ về một sự thật là ketamine và PCP và sự loại bỏ đi những trải nghiệm tiêu cực hay sự trải nghiệm của một trải nghiệm tiêu cực, mình hơi đang đi theo kiểu meta (chữ lồng chữ) ở đó. Nhưng trải nghiệm của một trải nghiệm tiêu cực có thể là một con đường quan trọng mà qua đó người ta điều trị cảm giác trầm cảm của họ, đặc biệt là trong những dạng (thể dạng) trầm trọng (nặng) nhất của nó, khi mà người ta đang nghiêng hướng (veering towards) về đến sự tự làm hại bản thân, sự tự cắt xén bản thân (mutilation), và tự tử.
Vậy nên có lẽ bạn đã nhận ra một nền chung đó là một số thể loại cụ thể của các phương thức (cách tiếp cận) mà chúng ta đã đang bàn luận đến giờ để đẩy lùi (offsetting) những triệu chứng của sự trầm cảm, như là tập thể dục, ăn uống EPA, giảm inflammation, hay thậm chí là thuốc SSRI cho việc tăng lượng serotonin. Tập trung vào việc thay đổi một số chức năng sinh học cốt lõi như tăng lượng của một hóa chất, serotonin hay làm giảm đi lượng inflammatory cytokine trong não bộ và cơ thể. Và rồi những thứ như ketamine tập trung nhiều hơn về tái xoắn dây (tái cấu trúc, tái tạo lại) hệ mạch dây thần kinh, thay đổi mạch dây hệ thần kinh để mà để cho nó hoạt động tốt hơn trong ngay trước mắt và hy vọng cả trong dài hạn nữa, và giữ những ai đang trong trầm cảm ở trong sự (trạng thái) thuyên giảm, xa ra khỏi trầm cảm.
Một thể loại khác của các phương thức điều trị mà đang được tích cực khám phá hiện nay trong các phòng thí nghiệm và trong lĩnh vực tâm thần học là những loại thuốc (chất) gây ảo giác (psychedelics). Và đó là một thể loại lớn khổng lồ của (chứa) các hợp chất. Tuy nhiên, một hợp chất cụ thể, psilocybin là một hợp chất mà đang được theo đuổi nồng nhiệt và tích cực (intensely and actively pursued) cho khả năng của nó để điều trị trầm cảm chính. Tôi muốn nói rất là rõ là nghiên cứu mà tôi sắp miêu tả là những nghiên cứu được thực hiện ở những hoàn cảnh (trong bối cảnh) trường đại học, bệnh viện đại học bởi những nhà khoa học và những nhà tâm thần học, đây là những nghiên cứu lâm sàng, thử nghiệm lâm sàng dẫn đến những dữ liệu được đánh giá qua bởi đồng nghiệp. Và đó là những dữ liệu mà chúng ta sẽ đang bàn ở đây. Một số những người khai sáng (tiên phong, luminaries) lớn trong lĩnh vực này bao gồm, và đương nhiên không giới hạn trong vòng này, nhưng bao gồm những người như Matthew Johnson ở Đại học John Hopkins. Chúng ta sẽ bàn về một số công trình nghiên cứu của anh ta bây giờ, và thật may thay tôi có thể chia sẻ là anh ấy sẽ đến tham gia chương trình podcast của chúng ta với vai trò là khách mời để miêu tả những nghiên cứu trong một loạt những phòng thí nghiệm, làm việc trên một loạt những hợp chất gây ảo giác khác nhau, nhưng hãy tập trung vào psilocybin cho khả năng của nó để tái xoắn dây lại những mạch dây thần kinh và giảm nhẹ trầm cảm. Có những dữ liệu và bằng chứng truyền miệng (anecdotal data) qua các năm rằng psilocybin có khả năng này.
Vậy psilocybin hoạt động như thế nào? Psilocybin, hay nấm ma thuật như nó đôi khi được gọi, phần chính hoạt động trên cái mà gọi là điểm tiếp nhận serotonin 5H2A với một chút ít sự giống nhau (affinity) với điểm tiếp nhận 5HT1. Điều đó có nghĩa là gì? Căn bản là, bạn có rất nhiều loại khác nhau của điểm tiếp nhận serotonin cũng giống như bạn có rất nhiều loại khác nhau của những điểm tiếp nhận Dopamine và những loại khác nhau của điểm tiếp nhận. Ưu điểm của việc có những điểm tiếp nhận khác nhau biểu hiện trong những phần khác nhau của não bộ và cơ thể, thậm chí trên những phần khác nhau của những tế bào đơn lẻ (individual cells) trong não và cơ thể, là rằng hợp chất giống y đó, serotonin có thể có một tập hợp đa dạng của các tác dụng trên những tế bào và mô tế bào khác nhau. Đây cũng chính là nền tảng của một số của những hồ sơ về tác dụng phụ của SSRI, bởi vì có lẽ ví dụ, chúng ta biết rằng uống Prozac fluoxetine sẽ tăng serotonin trong một khu vực nhưng ngoài ra cũng ở một khu vực khác. Và rồi chúng sẽ có những hiệu quả (tác dụng, hiệu ứng) đa dạng trên những mạch dây não khác nhau bởi vì sự đa dạng của các điểm tiếp nhận. Các điểm tiếp nhận giống như là những chỗ đậu xe (lỗ trống để xe) nơi mà phân tử serotonin đậu vào và có những tác dụng (hiệu ứng) khác nhau. Psilocybin kéo lôi tham gia vào hay là tăng lên sự truyền qua serotonin, nghĩa là nó làm tăng lên lượng serotonin, chính yếu bằng việc hoạt động trên những điểm tiếp nhận 5H2A này, nhưng ở nơi đâu trong não mà điều này xảy ra và những (tác dụng) hiệu ứng lớn là gì? Đầu tiên, hãy nói về những tác dụng lớn trước bởi vì tôi nghĩ đó là điều mà người ta mọi người có hứng thú vào. Bài nghiên cứu mà tôi muốn làm sáng (highlight) là một bài nghiên cứu tương đối gần đây. Nó được xuất bản vào thang 5/2021 trong Journal of the American Medical Association Psychiatry (JAMA Psychiatry), và nó được đặt tiêu đề, 'Effects of Psilocybin-Assisted Therapy on Major Depressive Disorder: A Randomized Clinical Trial' (Những tác dụng hiệu quả của trị liệu được hỗ trợ bởi psilocybin cho rối loạn trầm cảm chính: một thử nghiệm lâm sàng mang tính ngẫu nhiên hóa). Nó là một bài nghiên cứu cực kỳ tuyệt đẹp, một nghiên cứu rất là quan trọng. Nó bao gồm một số trong những nhà (người) khai sáng trong lĩnh vực này như là Matthew Johnson, Patrick Finan, Roland Griffiths và những người khác. Chúng tôi sẽ cung cấp một đường link cho nghiên cứu này (Link: https://jamanetwork.com/journals/jamapsychiatry/fullarticle/2772630). Nó có thể được truy cập trong dạng nguyên đầy đủ của nó không tốn phí, nếu bạn muốn đọc nó. Nó có rất nhiều chi tiết. Nên tôi sẽ chỉ tóm tắt một số thứ nhưng căn bản điểu mà họ làm là, họ lượt qua (lọc qua, screen) những bệnh nhân để đến khám trong phòng khám. Đây là những người mà đang trải qua (chịu) rối loạn trầm cảm chính, và được cho dùng hoặc là một hay hai vòng của psilocybin. Họ dùng những liều cụ thể mà được liệt kê trong bài nghiên cứu nên bạn có thể tìm kiếm nó ra nếu bạn thực sự hứng thú với mức độ chi tiết đó. Thông thường, nó là 20 mg cho mỗi kg cân nặng cơ thể. Nên nó phụ thuộc vào cân nặng cơ thể. Hay 30 mg psilocybin cho 70 kg cân nặng cơ thể. Chúng được cho dùng trong dạng viên nén con nhộng. Nên người ta không phải đang ăn nấm. Đây rõ ràng là một nghiên cứu rất được kiểm soát và họ muốn kiểm soát những liều lượng khá là hợp lý. Những người tham gia được sắp xếp ngẫu nhiên để bắt đầu cuộc điều trị ngay hay sau một khoảng trì hoãn là 8 tuần. Họ (những nhà nghiên cứu) có tất cả những nhóm kiểm soát thích hợp mà một người muốn nhìn thấy. Điều mà thực sự ấn tượng về cuộc nghiên cứu này là có một sự cải thiện rất là đáng kể trong tâm trạng và cảm xúc và sự giảm nhẹ những triệu chứng trầm cảm trong khoảng từ 50-70% số người mà là những chủ thể tham gia trong cuộc nghiên cứu mà nhận được sự điều trị bằng psilocybin. Và liệu rằng phải hay không nó là 50 hay liệu rằng phải hay không nó là 71% có thay đổi phụ thuộc vào khoảng bao lâu sau cuộc nghiên cứu này họ duy trì (giữ) những hiệu ứng (hiệu quả) chống trầm cảm này, liệu rằng có hay không họ ở trong sự thuyên giảm (they stayed in remission) khỏi sự trầm cảm, nhưng đây là những hiệu ứng to lớn và đáng kể, và rất là đáng háo hức và chỉ đến hướng của psilocybin rất là sớm trở thành một liều điều trị (cách điều trị) cho những dạng khác nhau của trầm cảm, bao gồm trầm cảm chính. Bây giờ, tất nhiên là, điều này là đang hạn chế trong giới hạn quy mô phòng thí nghiệm ở hiện tại. Có một số thành phần của những nghiên cứu này mà cũng quan trọng để đưa vào xem xét cả nữa, đó là rằng có những người hướng dẫn được đào tạo (rèn luyện) rất kỹ càng (highly trained guides), nghĩa là những người để hướng dẫn chỉ dẫn người ta qua trải nghiệm đó. Như Matthew Johnson đã nói với tôi, có sự xuất hiện lúc này sang qua lúc kia của những ai mà có cái mà gọi là 'bad trips' những chuyến đi tồi tệ, của việc có những sự hoảng loạn nỗi lo sợ (anxiety attacks) trong quá trình ảo giác (during the hallucinations) và tất cả những thứ đó. Và họ có những cách, những con đường để hạn chế điều đó và xử lý với nó bởi vì những hướng dẫn viên đã được đào tạo, rèn luyện kỹ càng. Họ có tất cả đủ loại của những thiết bị theo dõi y tế cho nhịp tim và nhiệt độ và những thứ mà một ai đó có thể sẽ thích thấy trong một nghiên cứu như vậy, bởi vì đây là những hợp chất rất là sức mạnh (mạnh mẽ, mãnh lực). Tôi không muốn thảy ra, tung ra bất kỳ những thành phần trong cuộc nói chuyện của tôi với Matthew Johnson bởi vì nó sẽ được tung ra dưới dạng podcast khá là sớm thôi ở đây, trên chương trình Huberman Lab Podcast. Nhưng một trong những thứ mà xuất hiện (trồi lên) và là một câu hỏi căn bản mà tôi có, rằng tôi nghĩ rất nhiều người trong số các bạn có lẽ đang thắc mắc là, trải nghiệm mà một người có trên những hợp chất này có tạo ra sự khác biệt cho việc có hoặc không một người có được sự giảm nhẹ cảm giác (sự) trầm cảm, từ những chuyến đi psilocybin này, hay không? Nói cách khác, liệu có quan trọng việc họ nói gì? Liệu có quan trọng họ nghĩ gì? Liệu có quan trọng là họ có một chuyến đi tốt hay xấu? Và tôi không muốn giữ bạn trong quá nhiều sự hồi hộp (sự chờ đợi, sự lủng lẳng, suspense), tôi sẽ để Matthew cung cấp một câu trả lời kỹ càng (đầy đủ) hơn. Nhưng điều mà rất là thú vị là có những nền chung của việc cho dùng psilocybin và trải nghiệm mà dẫn đến sự giảm nhẹ những triệu chứng trầm cảm, nhưng chúng là khác nhau rất là chủ quan, nghĩa là rằng có hay không họ có một trải nghiệm tốt hay một trải nghiệm xấu, liệu rằng có hay không người ta nghĩ về ba mẹ hay nghĩ về màu sắc của trần nhà, không có vẻ như có quá nhiều sự ảnh hưởng liệu rằng có hay không họ nhận được sự giảm nhẹ trong những nghiên cứu, trong những nghiên cứu lâm sàng này. Nó có vẻ như những người khác nhau có thể có những trải nghiệm khác nhau và có thể vẫn nhận được hiệu quả (lợi ích). Và điều đó chỉ đến một điều gì đó sâu xa (sâu sắc) hơn. Nó chỉ đến sự thật là những loại thuốc này, mà thật sự chúng là như vậy, đang xoắn mạch dây thần kinh trong một cách chung mặc dù một sự đa dạng của các trải nghiệm khi đang dùng thuốc. Và điều đó bản thân nó là rất là thú vị. Và nó mang chúng ta về một nơi (một chỗ) mà chúng ta đã từng ở đến trước đó trong cuộc thảo luận của ta, đó là lớp năm layer five của vỏ não. Vùng mà ketamine có vẻ cũng mang lại ảnh hưởng cả bằng cách bằng việc tạo ra nhịp điệu của, cái mà tôi đã đề cập, hoạt động 1-3 Hz trong lớp năm của những vùng nhất định trong vỏ não. Điểm tiếp nhận 5HT1A được biết là được làm giàu (cải thiện) hơn trong lớp năm của vỏ não, và lớp năm của vỏ não là một vùng khu vực rất thú vị, bởi vì đó là một vùng mà trong đó có rất nhiều hoạt động (từ bên này qua bên kia). Nên những kết nối giữa những vùng não khác nhau từ bên này qua bên kia (phương ngang), thông thường là cái mà cho phép chúng ta để hợp nhất (merge) những giác quan (sense) khác nhau. Nên ví dụ, khi chúng ta nghe một âm thanh bên phải ta, ta quay sang bên phải. Có một phản hồi được kết nối rất là chặt chẽ (hardwired response). Và thường thường chúng ta nghe gì đó bên phải ta, chúng ta không nhìn qua bên trái ta. Đó là mức mà các mạch dây này được kết nối (xoắn) chặt chẽ đến mức này (nào). Điều mà có vẻ đang có vẻ diễn ra là rằng sự kích hoạt của hệ thống serotonin và điểm tiếp nhận 5HT1A trong lớp năm đang đưa ra (dâng lên, offer up) hay cung cấp một trải nghiệm mà những kết nối chiều ngang có thể kết nối (tiếp sức với nhau, tham gia vào nhau, engage) rộng rãi hơn mà chúng có thể thường thường là. Và điều đó có thể là một điều xấu. Và tôi đã hỏi Matt về điều này, nó nghe có vẻ rùng rợn. Tôi không biết rằng khi tôi nghe một cái gì đó bên phải tôi mà tôi muốn nhìn qua bên trái tôi, là rằng lúc đó tôi có thể bị thích nghi rất không đúng (maladaptive), đặc biệt là đó là khi một chiếc xe hơi có thể đang tiến đến tôi từ bên phải. Điều đó không có vẻ như là điều mà đang xảy ra. Nó thực sự không đang tái xoắn dây những mạch dây phản xạ ăn sâu này (it's not really rewiring these deeply reflexive circuits). Nó là một cách nào đó tái xoắn dây những liên tưởng giữa các sự kiện, những sự kiện cảm xúc, sự kiện trong quá khứ, sự kiện hiện tại và sự kiện tương lai trong (theo) những cách mà cho phép người ta có thể có một kiểu loại nào đó của sự giảm nhẹ hay khoảng cách từ những câu chuyện này (narratives), những câu chuyện gây sầu não này (depressive stories) về quá khứ và hiện tại của họ và cho phép họ có thể thấy được những cơ hội mới và niềm lạc quan trong tương lai. Nó thật sự là một điều rất tuyệt vời nếu bạn thật sự nghĩ về nó. Bởi vì tôi có thể đã suy nghĩ rằng chỉ bằng việc tăng lên những kết nối phương ngang, nghĩa là những liên tưởng ngang qua nhau, rằng mọi thứ có thể hoặc là được tái xoắn dây lại ngẫu nhiên theo (trong) những cách mà không có phục vụ cho chúng ta hay có thể sẽ không tạo ra hiệu ứng (kết quả) nào hết cả. Nên nó hoặc là sẽ là tệ hoặc là trung tính. Nhưng thực sự nó không phải là cách mà mọi thứ đang diễn ra (hóa ra trở thành). Và một lần nữa, đây là những nghiên cứu được kiểm soát cao. Tôi muốn nhấn mạnh là ketamine, psilocybin, những thứ này vẫn đang còn là bất hợp pháp (trái phép, thuốc cấm). Ở đa số các nơi. Có một số vùng và thành phố ở Mỹ mà chúng được làm không còn tội phạm hóa ở địa phương (locally decriminalized) nhưng chúng không phải là hợp pháp. Chúng vẫn là đang bất hợp pháp. Nên cái (điều) mà tôi (chúng ta) đang kể hướng (nhắm) vào đến là thực sự những nghiên cứu lâm sàng mà trong đó người ta đang dùng uống thuốc đó một cách hợp pháp. Tôi nghĩ sẽ rất có khả năng là chúng ta sẽ thấy một sự chuyển dịch (sự dịch chuyển) trong pháp lý (cơ quan lập pháp) xung quanh những loại thuốc gây ảo giác (psychedelics) và cụ thể là psilocybin trong một tương lai không xa. Và tôi nghĩ là bây giờ, điều mà chúng ta nên biết, là những gì Matt đã nói với tôi và những gì mà bạn sẽ nghe nhiều hơn về, đó là rằng psilocybin, cái chất này mà trong nhiều trường hợp, những phương thức điều trị hai liều được thực hiện trong môi trường rất là lâm sàng (được kiểm soát) với người bệnh mà được chọn lựa kỹ càng, có thể trong rất nhiều tình huống, đông đảo (phần lớn) người nhận được và duy trì sự giảm nhẹ khỏi những triệu chứng trầm cảm đơn giản qua trải nghiệm của chuyến đi ảo giác này (psychedelic journey). Tôi có hỏi anh ấy (Matt) về dùng liều cực nhỏ. Tôi làm nó nghe như tôi chưa từng nghe (biết) qua nó trước từng bao giờ vậy đó. Microdosing, không phải micro dosing (có ngắt nghỉ khoảng cách). Microdosing, và câu trả lời của anh ta rất thú vị. Câu trả lời của anh ta là những hiệu ứng microdosing (dùng liều cực thấp, cực nhỏ) không có vẻ như có hiệu quả (tác dụng, ảnh hưởng) như những cái, hãy cứ gọi nó như bản thân chúng là gì, những buổi trị liệu biên độ cao mà có chỉ một hoặc hai, có những nghiên cứu đang diễn ra mà có hơn hai, nhưng rằng microdosing không có vẻ như so được với những macrodosing (liều lớn), tôi đã đề cập đến liều dùng trước đó rồi đó, 20mg cho mỗi 70kg cân nặng cơ thể hay 30mg cho 70kg liều, cho uống cách vài tuần. Nên bạn sẽ nghe nhiều hơn về microdosing và những thuốc gây ảo giác (psychedelics) khác và ảnh hưởng của nó lên những trạng thái trầm cảm và trầm cảm chính trong tập phát sóng với Matt. Nhưng trong thời điểm hiện nay, hiện tại, nó thật sự có vẻ như là, một lần nữa, chúng ta đang nhìn vào neuroplasticity (sự khả biến thần kinh), chúng ta đang trở về với lớp năm, cũng giống như với ketamine và PCP. Chúng ta đang nghe về lớp năm, chúng ta đang nghe về việc tái xoán của mạch dây, chúng ta đang nghe về một sự thoát ly (tách ly) hay một sự khoảng cách của một bản thân ai đó khỏi những tâm trạng và cảm xúc và câu chuyện tiêu cực. Nhưng mà, có một sự khác biệt chính yếu giữa hoạt động của ketamine và hoạt động của psilocybin, cái mà trong hoạt động của ketamine, nó thật sự là về tách ly (dissociate) khỏi một trải nghiệm trong suốt buổi trị liệu với nhà tâm thần học (psychiatrist) trong khi trong chuyến đi psilocybin, nó thật sự là ngấm chìm một người trong trải nghiệm đó và trở nên ở hiện tại (hiện thực) hoàn toàn trong trải nghiệm đó. Điều đó có vẻ là một thành phần quan trọng và sự khác biệt ở đó là gì và tại sao chúng cả hai đều có vẻ như cung cấp cho có sự giảm nhẹ khỏi trầm cảm chính thì chưa được rõ ràng lắm. Tôi nghĩ khá nhiều khả năng là nó mang chúng ta lại sự thật là cái thứ mà chúng ta gọi là trầm cảm chính, rõ ràng bao gồm, serotonin, Dopamine, và norepinephrine. Và trong một số cá nhân, những loại chất đó có thể bị thiếu hụt hơn trong một hay một vài những chất đó hay trong tất cả những chất đó trong khi ở những cá nhân khác, nó có thể là một tập hợp những chất khác nhau. Và tất nhiên có một số lượng lớn những chất gây ảo giác khác mà người ta đang tìm tòi nghiên cứu (khám phá) cho sự điều trị trầm cảm chính. Nhưng thật sự psilocybin là cái mà chúng ta có nhiều dữ liệu nhất về. MDMA đã được phần lớn khám phá ra trong lĩnh vực lâm sàng y học cho sự điều trị của sang chấn tâm lý. Có những cuộc kiểm nghiệm đang diễn ra cho điều trị trầm cảm, nhưng sự đột phá lớn có vẻ đang diễn ra trong lĩnh vực điều trị sang chấn, nhóm MAPS đang thực hiện điều này, một lần nữa, theo một cách hợp pháp trong trường hợp tình huống lâm sàng. Và có những nhóm khác đang bắt đầu thực hiện nó cũng như vậy cả. Chúng tôi sẽ làm một toàn tập về MDMA và những hợp chất có liên quan. Nên tôi sẽ để dành cuộc thảo luận đó cho tập phát sóng kia.
Một trong những câu hỏi tôi thường xuyên nhận được cho chương trình này là về những chế độ ăn uống khác nhau, những hệ thống khác nhau (different regimes), những kế hoạch dinh dưỡng khác nhau, những thứ như keto, ketogenic diet (chế độ ăn), hay chế độ ăn vegan ăn chay, hay intermittent fasting (nhịn ăn gián đoạn), hay chế độ ăn toàn thịt, chế độ ăn gọi là chế độ ăn sư tử, vv. Có những dữ liệu thật sự rất thú vị có liên quan đến dinh dưỡng và chế độ ăn của rối loạn trầm cảm chính. Và tôi nghĩ mình chỉ cần khung chỉnh (định khung) điều này lại bằng cách quay trở về một thứ mà được nói đến trước đây, mà đó là sự ăn hoặc uống carbohydrates (tinh bột), cụ thể là carbohydrates và một số loại thịt như thịt gà tây, mà có giàu chất tryptophan, tiền tố của serotonin là trong rất nhiều cách phiên bản tự kê chuẩn thuốc cho mình của sự điều trị trầm cảm. Và giờ, để rõ ràng, tôi không nói là người ta nên dùng thức ăn để như kê thuốc cho trầm cảm của họ. Rất nhiều người làm điều đó theo một phản xạ tự nhiên, dù sao đi nữa, họ tìm đến những loại thực phẩm giàu tinh bột (carbohydrate rich foods) để làm giảm đi lượng cortisol, bởi vì thực sự thực tế đó là điều mà nó làm. Nó làm giảm cortisol khi bạn ăn uống thực phẩm giàu carbohydrate (tinh bột), cụ thể là các loại thực phẩm giàu tinh bột và nó cũng có làm tăng serotonin. Cụ thể là, nếu những loại thực phẩm đó có giàu axit amin tryptophan. Bây giờ ăn uống thức ăn là tuyệt vời và quan trọng và tuyệt vời, nhưng ăn uống quá nhiều thực phẩm của bất cứ loại nào, carbohydrate hay loại nào khác, là không khỏe mạnh (lành mạnh), tất nhiên rồi. Có những sự khám phá ra việc rằng liệu có hay không một chế độ ăn chay có thể cải thiện những triệu chứng của trầm cảm. Không có quá nhiều dữ liệu, không quá nhiều dữ liệu ấn tượng. Có rất ít những cuộc nghiên cứu kiểm soát nhìn vào chế độ ăn thịt (carnivore) hay toàn thịt. Về trên chủ đề đó, tôi nghĩ hiện giờ đang có những nghiên cứu mà đang được búng lên (starting to spin up), nghĩa là những nghiên cứu mà đang bắt đầu được búng lên (có lên, dấy lên, spin up). Tuy nhiên, chế độ ăn ketogenic đã được khám phá cho khả năng của nó để giảm nhẹ một số triệu chứng của trầm cảm, cụ thể là cái mà gọi là maintained euthymia. Euthymia là một kiểu của trạng thái của sự cân bằng giữa một trạng thái hơi phấn khích (điên loạn, manic episode) và một trạng thái trầm cảm (depressive episode) trong một người trầm cảm lưỡng cực điên loạn (manic bipolar person). Chúng ta sẽ quay trở lại điều này nhiều hơn trong một tập phát sóng tương lai. Nhưng căn bản nó là, những người điên loạn (maniacs) có những điểm cao và thấp, lưỡng cực, hoặc là vòng qua vòng lại tới và lui rất là nhanh. Nên những lưỡng cực vòng lặp rất nhanh hay chậm, một số người. Rất là nhanh, có thể là ngày này qua ngày khác, những người khác nó là tháng này qua tháng kia, hay tuần này qua tuần kia, họ lên cao và thấp. Và bạn nghe về mania (hưng cảm) và bạn nghe về dysphoria (bức bối vùng trên), euthymia là kiểu vị trí đó ở giữa mà người ta không cảm thấy quá cao hứng hay thấp cảm. Và có những nghiên cứu khá thú vị xem xét chế độ dinh dưỡng ketogenic cho việc duy trì euthymia trong những người trầm cảm hưng cảm (manic depressives) nhưng ngoài ra là trong cả người với trầm cảm chính. Tại sao điều này lại hoạt động (có hiệu quả)? Bạn phải nhớ là chế độ dinh dưỡng ketogenic không được khám phá ra để mà những nhà dinh dưỡng học ảo tự phong (self appointed nutrition gurus) có thể nói về nó trên mạng hay để mà người ta có thể kiếm tiền bán những thứ liên quan đến ketosis. Và ở đây tôi không có đang hạ thấp giá trị của chế độ dinh dưỡng ketogenic. Nó đã giúp đỡ rất nhiều người. Chế độ ăn ketogenic được thật sự cho thấy là có liên quan về mặt y học cho việc sử dụng nó để điều trị epilepsy (động kinh). Hóa ra là epilepsy hay là cụ thể là động kinh ở trẻ em (pediatric epilepsy) mà một chế độ dinh dưỡng ketogenic và một sự dịch chuyển trong quá trình trao đổi chất trong não đến một trạng thái mà chủ yếu là trong đó ketone được chuyển hóa (metabolize) hơn là sự chuyển hóa chặt chẽ glucose tiêu chuẩn, có thể làm giảm đáng kể số lần bị động kinh (giật lên, epileptic seizures) mà những đứa trẻ con này trải qua. Nó không phải lúc nào cũng như vậy, nhưng mà thường thường là như vậy. Và nếu bạn nói chuyện với một neurologist (nhà thần kinh học) hay neurosurgeon (nhà / bác sĩ giải phẫu thần kinh) mà chuyên về epilepsy (động kinh), trong cụ thể động kinh ở trẻ (pediatric epilepsy) và họ sẽ nói với bạn điều này. 'Ừ, chế độ ăn ketogenic, trong nhiều trường hợp, không phải tất cả, có thể rất là hiệu quả trong việc điều trị này' Làm sao? Làm thế nào mà một chế độ dinh dưỡng ketogenic có thể làm giảm những cơn động kinh (co giật, seizures)? Cách mà nó làm giảm những cơn co giật là bằng cách làm tăng cái mà gọi là sự truyền GABA. GABA là một chất mà được giải phóng tự nhiên ra ở trong não, nó là một chất dẫn truyền gây cản trở (inhibitory neurotransmitter), nghĩa là, khi mà nó được giải phóng ra khỏi trong xi náp (synapse), nó có khuynh hướng làm giảm sự kích hoạt kết nối (firing), để làm giảm những hoạt động điện của nơ ron tiếp theo hay một tập hợp những nơ ron. Có một vài những hợp chất làm tăng GABA. Cụ thể là GABA trong não trước. Một ví dụ thông thường sẽ là một thứ như là cồn (alcohol), uống cồn, uống một hay hai ly sẽ làm tăng sự truyền GABA, sẽ một cách mỉa mai (trái ngược, ironically) thay sẽ làm giảm xuống những sự cản trở xã hội bằng cách tăng lên sự cản trở của hóa chất thần kinh của bạn. Nó căn bản là đè ép, đè nén xuống những con đường dẫn truyền tự thân theo dõi (self-monitoring pathways), và nếu người ta uống đủ nhiều nó sẽ đè nén xuống tất cả những con đường dẫn truyền và người ta sẽ tè dầm ra người và ngã xuống ra (nhào ra). Nó sẽ cuối cùng sẽ ngăn cản tất cả các loại đường dẫn truyền. Vậy nên hệ thống GABA có một dãy các hiệu ứng khá dồi dào khắp cả não và cơ thể ta. Nhưng chất cồn có xu hướng kích hoạt sự giải phóng của GABA. Bạn có thể nói, vậy thì tại sao không chỉ uống cồn để đè ép những cơn co giật. Đó sẽ là một ý tưởng tồi bởi vì nó có một sự kích thích (phấn khích lên) trở lên (rebound excitability) sau khi cồn ngưng có hiệu quả (hiệu ứng, tác dụng) trên những điểm tiếp nhận GABA. Vậy nên có một sự phấn khích (excitability) cái mà cho sự động kinh (epilepsy) sẽ là khá tệ. Lý do tại sao chế độ dinh dưỡng epileptic diet có hữu dụng (hữu ích) cho sự động kinh là nó tăng lên cái mà gọi là mức độ tonic, kiểu như là một cơn sóng, một mức độ của GABA trong não và rằng nó đè ép một số của sự tăng động phấn khích quá mức (hyperexcitability), đó là một đặc điểm mang tính đặc trưng của epilepsy (sự động kinh). Và có cả những loại thuốc, ví dụ như, benzodiazepine và những thứ như loại Xanax, Valium và vân vân. Những thứ đó tăng lên sự truyền chất GABA (GABA transmission). Những loại thuốc đó cũng có rất nhiều tiềm năng cho sự lạm dụng và nghiện ngập, vv. và chúng cũng gây ra nhiều vấn đề vì những lý do khác nhau. Nhưng chế độ dinh dưỡng ketogenic, bằng cách tăng lên sự trao đổi chất ketone hay dịch chuyển hệ trao đổi chất của não bộ qua ketone, có xu hướng để cân bằng, điều chỉnh hòa hợp (modulate) GABA sao mà cho đó GABA sẽ hoạt động nhiều hơn và điều chỉnh cái mà gọi là sự cân bằng GABA glutamate. Điều này hơi bắt đầu đi sâu vào chuyên môn (kỹ thuật) nhưng glutamate là một chất dẫn truyền thần kinh gây kích thích (phấn khích). GABA là một chất dẫn truyền gây ức chế (inhibitory neurotransmitter) và sự cân bằng của nó là thiết yếu cho sự khả biến thần kinh, cho việc duy trì những mức độ khỏe mạnh cho hoạt động trong não, vv. Và rồi có những bằng chứng kha khá rằng những người với những rối loạn trầm cảm chính, cụ thể, những người mà có những rối loạn trầm cảm chính mà không có phản hồi (refractory), nghĩa là họ không phản ứng lại những thuốc chống trầm cảm cổ điển, có thể có lợi, nó có vẻ là, từ chế độ dinh dưỡng ketogenic. Và đây không phải luôn luôn là trường hợp như thế, nhưng cho những ai trong số các bạn ngoài kia mà đang chịu đựng với trầm cảm chính, và ở đó mà các loại thuốc không có tác dụng, xin hãy nói chuyện với bác sĩ tâm thần học của bạn (psychiatrist). Tôi không biết bao nhiêu người trong số họ có xem đến tài liệu (literature) về chế độ dinh dưỡng ketogenic hay EPA hay những cái còn lại. Bạn biết đó, những bác sĩ tâm thần học khác biệt nhau trong khía cạnh là họ có đào sâu nghiên cứu đến mức nào trong những tài liệu hiện tại (involved in the current literature) mà họ có thể có, nhưng mà có rất nhiều những nhà tâm thần học xuất sắc ngoài kia. Đa số trong số họ dựa trên kinh nghiệm của tôi thực sự là những người học tập khá là nhiệt huyết (avid learners) về những gì đang diễn ra và những gì mới trong lĩnh vực này mà họ gọi là tâm thần học (psychiatry). Vậy nên nó thật sự là thú vị là việc ăn theo một cách cụ thể nào đó, làm giảm carbohydrates đến một mức mà bạn phụ thuộc vào sự trao đổi ketogenic trong não bộ, tăng lên GABA và có thể cung cấp một sự giảm nhẹ cho những triệu chứng trầm cảm. Và đó cụ thể là, việc đó có vẻ như có những hiệu ứng (hiệu quả) tích cực ở trong những người mà không có phản ứng hay không phản hồi lại với những thuốc chống trầm cảm cổ điển. Và đó sẽ bao gồm những thứ như fluoxetine, vv. Tôi sẽ đưa ra một luận điểm cuối cùng về chế độ ăn dinh dưỡng ketogenic và GABA và trầm cảm, đó là nó cũng đã được cho thấy rằng cho những người mà phản hồi tốt với những loại thuốc này mà ảnh hưởng đến hệ serotonin, Dopamine, hay norepinephrine, chế độ ăn ketogenic, có thể làm tăng khả năng cho những loại thuốc đó để có thể có hiệu quả ở những liều thấp hơn, cái mà cũng giống như (gợi nhớ lại) những gì chúng ta thấy với sự bổ sung EPA.
Hôm nay, chúng ta đã bàn về, ít ra là đối với tôi, như là một lượng khổng lồ những tài liệu. Chủ đề trầm cảm này là thực sự là một chủ đề khổng lồ để thử và xoay tay của chúng ta quanh về (ôm vào). Chúng ta đã nói về những triệu chứng, chúng ta đã nói về một số khía cạnh hóa chất và sinh học nằm nền. Và rồi chúng ta đã nói về những cách tiếp cận để giải quyết nó (chúng), mà thực sự được cố định (có vị trí ấn định, grounded) chắc chắn trong mặt hóa chất thần kinh trong sinh học.
Tôi chỉ muốn ôn lại (recap) một vài trong số những công cụ đó và những thứ đó là gì. Đầu tiên (trước tiên), chúng ta nói về nỗ lực để không làm choáng ngợp quá hệ cảm niềm vui sướng của ta. Điều đó nghe có vẻ phản trực quan để không quá nhiều (thái quá) để tìm kiếm ra theo đuổi niềm vui sướng hoặc không một ai đó có thể thấy bản thân họ trong vị trí (trong sự trạng thái cảm giác) trầm cảm. Tôi đã đề cập hồi từ trước lúc đầu tập phát sóng này, một chàng thanh niên trẻ mà tôi biết mà đang rất là chống chịu (chịu đựng) với trầm cảm, và nó được cho là, và nó được cho là, chúng ta cũng chưa chắc chắn lắm, rằng một số trong sự trầm cảm đó có thể (có lẽ) được kích hoạt bởi sự đắm chìm quá nhiều vào trong video game (trò chơi video) và những hoạt động tạo ra Dopamine nhiều (cao hứng) khác (dopaminergic activities) đến một mức mà những hoạt động đó cuối cùng (rốt cuộc) được điều chỉnh lại (countered) bởi sự cân bằng (cán cân thăng bằng) mà TS Anna Lembke đã miêu tả. Và giờ anh ấy phải làm những hoạt động đó lặp lại (lặp đi lặp lại), và cho nhiều, nhiều tiếng đồng hồ mỗi ngày, chỉ để cảm thấy ổn, thậm chí không phải để thu rút (lấy được, có được derive) được niềm vui sướng từ những hoạt động đó. Và tệ hơn, rất nhiều những hoạt động khác, thực tế là (practically) tất cả những hoạt động khác đã mất đi niềm vui thú (hứng thú, đam mê, nhiệt huyết zest), chúng đã mất đi sự hứng khởi (excitement) và cảm giác hứng thú niềm vui sướng của anh ấy với những hoạt động đó. Nên có một chiến dịch rất là sôi nổi (sôi động) bây giờ để cân chỉnh lại hệ thống đó (reset that system). Cái thứ nhất, đừng quá áp quá choáng ngợp những trung tâm cảm niềm vui sướng của bạn hoặc là qua những hoạt động hay hợp chất nào đó. Nghe có vẻ phản trực quan, nhưng bạn đang căn chỉnh bản thân cho anhedonia (sự mất đi hứng thú trong cuốc sống) và trầm cảm (depression) nếu bạn làm điều đó, nó chỉ không chỉ là về sự nghiện (có cả nó nữa), nhưng nó còn có về căn chỉnh bản thân cho anhedonia (sự mất hứng thú trong cuộc sống) và trầm cảm. Mức độ thường xuyên bạn có thể tham gia vào những hoạt động này là bao nhiêu? Điều đó sẽ khác tùy vào người này người kia, mọi người hơi khác biệt nhau một chút, nhưng bạn nên thật sự để tâm đến những lúc rất cao hứng (rất vui tột độ, vui quá khích, extreme highs) và những sự trầm xuống quá nhiều (extreme lows) và nên cẩn thận chú ý về những điểm (khoản) đó. Chúng tôi chắc chắn sẽ mời TS Lembke đến vào một khoảng thời gian trong tương lai để cố gắng và có được một số thông tin chi tiết hơn về điều đó. Nhưng nếu bạn cảm thấy như bạn cần cân chỉnh lại hệ thống đó (reset that system), nó đúng là có vẻ như là quá trình detox (giải độc, thải độc) toàn diện 30 ngày từ bất kỳ hoạt động hay chất nào. Và lý tưởng thay (lý tưởng nhất), nó không diễn ra tiếp tục sau mức 30 ngày đó, đặc biệt là trong những điều kiện của những loại thuốc dễ gây lạm dụng. Điều thứ hai là, những bài nói chuyện về hệ thống norepinephrine và làm sao hệ norepinephrine thật sự là thiếu hụt trong nhiều thể trạng (dạng) của trầm cảm chính và trong trầm cảm. Hiện nay đã có những sự theo đuổi có chủ dích (chủ ý) hơn (deliberate pursuit) của những hoạt động tạo ra norepinephrine mà là lành mạnh, khỏe mạnh (healthy), mà không phải là hoạt động tìm kiếm sự giải phóng adrenaline (trong chính bản thân nó) (adrenaline-seeking per se), những thứ như tắm nước lạnh, những thứ như những mô thức cụ thể của việc hít thở mà tham gia (engage) và có xu hướng làm ta trở nên tỉnh táo (alert) hơn, những thứ như tập thể dục mà sẽ tăng lên làm tăng những mức độ noradrenaline. Tôi sẽ hơi thiếu sót (chưa cẩn thận) nếu mà tôi nói rằng những hoạt động này có thể xóa bỏ (loại bỏ) hoàn toàn những triệu chứng trầm cảm trong những ai (những người) với rối loạn trầm cảm chính. Đó không phải là trường hợp ở đây. Và một lần nữa, tôi muốn ghi nhận (acknowledge) là những người với những triệu chứng trầm cảm chính thông thường (thường thường) không có nguồn năng lượng, sự sẵn sàng, sẵn lòng (willingness) hay là khả năng (dung chứa, capacity) để tham gia vào một số trong những hoạt động này. Nhưng những thứ như tắm nước lạnh, chủ đích (deliberate) tắm nước lạnh, những thứ như tập thể dục thường xuyên, chúng không chỉ là những hoạt động giúp ta cảm thấy tốt (ổn). Chúng thực sự kéo hệ norepinephrine tham gia vào và giữ hệ thống đó được bắt nhịp (căn chỉnh nhịp, tuned up) và cho phép chúng ta tăng lên mức độ norepinephrine theo ý nguyện của chúng ta thường xuyên. Và những hiệu ứng (hiệu quả) tăng lên cải thiện tâm trạng của chúng là những tác dụng (hiệu quả, hiệu ứng) thực sự ở mức độ hóa chất thần kinh (neurochemicstry). Và rồi chúng ta nói về EPA, những Essential Fatty Acids này, và nó rõ ràng là đối với nhiều (đa số) người, hấp thụ mức hơn 1000 mg và có lẽ gần hơn với mức 2000 mg EPA một ngày có thể có lợi ích cho tâm trạng, đặc biệt là trong những nỗ lực để điều trị hay để đẩy lùi (offset) rối loạn trầm cảm chính. Có những tác dụng phụ nào không? Bạn cần phải khám phá điều đó cho bản thân mình và với bác sĩ của bạn và mỗi người có một nền tảng sức khỏe riêng biệt (khác nhau), cho mức độ vòng an toàn đối với nhiều người có lẽ có thể là khá rộng. Nhưng đối với một só người điều đó có thể không phải là trường hợp của họ (họ không gặp trường hợp đó / này). Nên hãy chắc chắn kiểm tra với bác sĩ của bạn. Chúng ta đã nói về tập thể dục và làm sao EPA và tập thể dục thường xuyên có thể đẩy lùi những con đường dẫn truyền inflammatory này. Tôi muốn nhắc đến (đề cập) một thứ mà tôi đã đề cập trong một chương trình podcast trước, nhưng về việc (chủ đề) giữ những inflammatone, tất cả những phân tử mà tạo ra inflammation và rồi inflammation có thể làm hạn chế lượng serotonin qua những đường dẫn truyền mà tôi đã miêu tả. Để làm được điều đó, nó cũng rất là, rất là hữu dụng để ăn hoặc uống (ingest) 2-4 phần của thức ăn lên men thường ngày hay khoảng thường ngày. Đây là những dữ liệu được công bố bởi Phòng Nghiên Cứu Thí Nghiệm Sonnenberg (Sonnenberg Lab) ở Stanford gần đây trong journal Cell Press Journal, một journal xuất sắc. Rằng việc ăn uống những thức ăn (thực phẩm) lên men này thực sự giữ cho hệ vi sinh đường ruột (gut microbiome) được căn chỉnh đều cân bằng tốt (tuned up), có thể nói như vậy (so to speak), để có thể đẩy lùi những inflammatory cytokine này và giữ inflammation cách xa, thì hóa ra là một thứ rất là tốt để có thể giữ tâm trạng của ta ở một nơi tốt. Vậy là EPA, tập thể dục, những thức ăn lên men, creatine như là một nguồn có tiềm năng của sự giảm nhẹ trầm cảm hay đẩy lùi hay giữ chúng ta tránh xa khỏi trầm cảm chính hay sụp (relapse) lại vào trong trầm cảm. Và rồi chúng ta đã nói về những hợp chất được kê toa và những hợp chất mà đang được sử dụng chính yếu trong quá trình (course of studies) những nghiên cứu và trong tâm thần học và trầm cảm, những thứ như ketamine, PCP, psilocybin và những hợp chất có liên quan. Và cuối cùng, chúng ta nói về ketosis (a metabolic state characterized by raised levels of ketone bodies in the body tissues, which is typically pathological in conditions such as diabetes, or may be the consequence of a diet that is very low in carbohydrates. Trạng thái trao đổi chất đặc trưng bởi lượng ketone tăng lên trong mô tế bào cơ thể, có thể là kết quả của một chế độ ăn rất ít carbohyrdrate), nó không phải phù hợp cho tất cả mọi người, nhưng có thể phù hợp cho một số cá nhân ngoài kia, người đang vật lộn (grappling) với điều này (sự/tâm trạng này).
Nếu bạn đang học được nhiều điều từ podcast này và hy vọng là bạn đang thích thú với nó và áp dụng một số trong những công cụ mà chúng tôi miêu tả, xin hãy đăng ký vào chương trình podcast của chúng tôi trên YouTube. Điều này nó thực sự giúp chúng tôi. Ngoài ra, cùng lúc, xin hãy để lại cho chúng tôi một bình luận hay một số phản hồi (feedback) cho những tập phát sóng tương lai và chủ đề mà bạn muốn chúng tôi làm qua (thực hiện, nghiên cứu, nói qua). Bạn có thể làm điều này trên YouTube trong phần comment bình luận. Cùng lúc đó, xin hãy theo dõi chúng tôi trên Instagram. Tên chúng tôi là Huberman Lab trên Instagram. Ở đó, tôi cung cấp một số video chiếu lại của một số tài liệu/thông tin này (trên YouTube). Tôi cũng cung cấp một số tài liệu/thông tin chính gốc (original material) mà không có xuất hiện lên trên chương trình podcast này. Xin cũng hãy đăng ký trên Apple và Spotify nếu bạn chưa làm rồi. Và trên Apple, bạn có cơ hội để lại cho chúng tôi một đánh giá đến 5 sao cùng cả với một bình luận và một số phản hồi (feedback). Xin ngoài ra hãy xem qua những nhà tài trợ mà chúng tôi đề cập ở đầu podcast. Nó là một cách tuyệt vời để ủng hộ (hỗ trợ) những gì chúng tôi đang làm. Chúng tôi cũng có một trang Patreon, đó là patreon.com/andrewhuberman và ở đó bạn có thể ủng hộ chương trình podcast ở bất kỳ bất cứ mức độ nào mà bạn thích. Trong suốt quá trình buổi phát sóng tập hôm nay và trong cả những tập phát sóng trước, tôi đề cập đến những loại thuốc bổ trợ mà có thể phù hợp với bạn. Nếu bạn muốn xem thử qua những loại thuốc bổ mà tôi dùng (đang dùng), bạn có thể vào thorne.com/u/huberman. Ở đó, bạn có thể thấy những loại thuốc bổ trợ mà tôi dùng. Nếu bạn muốn thử bất kỳ trong số những loại thuốc bổ trợ đó, bạn được giảm giá 20% cho bất kỳ loại nào trong đó. Và nếu bạn điều hướng từ vị trí đó trong trang web đến bất kỳ vị trí nào khác trên trang web của Thorne, bạn cũng sẽ có được giảm giá 20% bất kỳ những loại thuốc bổ trợ khác nào trên đó mà Thorne làm. Chúng tôi hợp tác với Thorne bởi vì họ có những mức độ tuyệt đối cao nhất của sự nghiêm ngặt về mặt chất lượng và số lượng của những loại thuốc bổ trợ mà họ cho vào những công thức bổ (công thức pha trộn) của họ. Và cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, tôi muốn cảm ơn bạn đã khởi đầu (bước lên, dấn bước, embark) trên con đường (chặn đường, chuyến đi, hành trình journey) của việc cố gắng hiểu trầm cảm là gì, nó hoạt động như thế nào và làm sao để điều trị nó. Và cảm ơn sự hứng thú của bạn về khoa học.
Nguồn video: